-LICH SỬ CHAMPA
QUA CÁC TRIỀU VƯƠNG
1. Triều vương thứ nhất
(192-366) :
Sau hàng thập niên
bị nhà hán đô hộ, với chính sách hà hiếp, tàn bạo. Sri-mara đã lãnh đạo các bộ
tộc champa vùng lên, lật đổ ách cai trị nhà hán, thành lập quốc gia champa
thống nhất. Ông lên ngôi năm 192, Đóng đô trà kiệu, ông lãnh đạo vương quốc
champa gồm một lãnh thổ rộng lớn từ hoành sơn cho đến đồng nai ngày nay. Từ những năm đầu công nguyên, vùng đất
từ sông gianh (quảng bình ngày nay) về phía nam là một phần của quận nhật nam,
quận cuối cùng của bộ giao chỉ. Cùng chung số phận như cư dân của hai quận giao
chỉ và cửu chân trong thời triệu Đà, cư dân bản địa Nhật nam đã sát cánh cùng
nhân dân giao chỉ hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của hai bà trưng, giữ quyền cai
quản của mình. Hòa nhập cùng cộng đồng người việt phía bắc, cư dân cổ vùng nhật
nam đã nhiều lần khởi nghĩa chống ách bắc thuộc . sau khi lâm ấp đánh tan giặc phương
bắc (nhà đông hán) thành lập nước vào cuối thế kỷ thứ hai (192), phía bắc tiếp
giáp với giao châu từ sông ghanh (quảng bình ngày nay). vào cuối thời Hậu Hán
(190-193) sau công nguyên, người Trung Hoa thường nói đến một dân tộc ở huyện
Tượng Lâm về phía Nam của Nam Việt mà người hán gọi là người “Man” thường nổi
lên đấu tranh chống lại sự tàn bạo của chế độ phong kiến nhà Hán. Sau một thế
kỷ liên tục nổi dậy, cộng đồng dân cư ở huyện Tượng Lâm này tuyên bố độc lập và
khai sáng ra đất nước Lâm Ấp do Khu Liên làm thủ lãnh và xưng vương. Tên nước
Lâm Ấp là tiền thân của Champa sau này. Ðây là giai đoạn đầu lập quốc; còn sau
này khi đất nước Champa được tổ chức quy củ rồi, giữa Trung Hoa và Champa cũng
có giai đoạn bang giao tốt đẹp, cũng có lúc Champa phải triều cống, có lúc
chiến tranh khốc liệt giữa hai quốc gia vì tham vọng thôn tính của Trung Hoa.
Cột đồng mã viện là mốc ranh giới đầu tiên giữa nhà Hán và dân cư gốc Nam Đảo.
Sự kiện này chứng minh các nhóm dân cư gốc người việt theo nhà Hán sinh sống trên
phần đất phía nam quận Nhật Nam rất e ngại những cuộc tấn công của người Nam
Đảo từ phía nam. Về địa điểm của cột đồng, sử cổ Trung Hoa như Hậu Hán thư và
Thủy Kinh chú cho rằng nó nằm ở phần lãnh thổ cực nam của nhà Hán (quận Nhật
Nam) ở huyện Cửu Phong (tỉnh Quảng Trị ngày nay). Những nguồn sử khác như Tấn
thư, Nam thư và Lương thư cũng cho rằng cột đồng được dựng lên ở phía nam huyện
Tượng Lâm (phía bắc Thừa Thiên-Huế). Tân Đường thư thì cho rằng cột đồng được
dựng lên ở phía nam Quảng Châu. Nổi dậy ở Tượng Lâm: Sau biến cố Hai Bà Trưng,
tình hình chính trị ở phía nam huyện Tượng Lâm, luôn dao động. Mùa hè năm 100,
hơn 2.000 dân Tượng Lâm nổi lên phá đồn, đốt thành, giết một số quan quân cai
trị. Chính quyền đô hộ phải huy động quân của các quận huyện khác đến dẹp, giết
được chủ tướng, cuộc nổi loạn mới tạm yên. Từ đó chính quyền nhà Hán không dám
ức hiếp một cách thô bạo dân cư tại đây nhưng đặt vùng đất này dưới quyền cai
trị trực tiếp, do một binh trưởng sứ cầm đầu, đề phòng những cuộc nổi loạn sau này.
Để lấy lòng dân cư địa phương, quan quân nhà Hán tổ chức phát chẩn cho dân
nghèo, miễn thuế hai năm v.v. Mục đích của chính sách cai trị trực tiếp này là
thu thuế và nhận phẩm vật triều cống (vàng, bạc, sừng tê giác, ngà voi, móng
chim ưng, hương liệu, vải lụa) càng nhiều càng tốt. Thuế và phẩm vật triều cống
do những lãnh chúa địa phương thay mặt nhà Hán thu của dân. Như vậy nhà Hán vừa
có thu nhập vừa không hao tốn ngân quỹ, lại duy trì được ảnh hưởng trên vùng
đất đó, bù lại lãnh chúa địa phương được sắc phong và được bảo vệ khi bị tấn
công. Theo sử liệu cổ của Trung Hoa (Hậu Hán thư, Lưu Long truyện, Mã Viện
truyện) ghi lại thì người huyện Tượng Lâm luôn chống đối lại chính sách cai trị
của nhà Hán và thường tranh chấp lẫn nhau về quyền cai trị tại vùng đất này.
Tượng Lâm ở quá xa chính quốc nên sự cai trị trực tiếp của những quan đô hộ và
binh lực nhà Hán làm hao tốn công quỹ mà lợi ích chính trị và kinh tế không
cao, do đó đã rất lơ là. Năm 136, khoảng 1.000 dân Tượng Lâm nổi lên chống lại
sự cai trị của nhà Hán và đánh chiếm huyện Tượng Lâm, họ đốt thành và giết
trưởng lại (huyện trưởng). Năm sau thứ sử Giao Chỉ là Phàn Diễn phải điều hơn
10.000 binh sĩ từ hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân xuống đàn áp nhưng thất bại.
Thay vì đi dẹp loạn, đoàn quân này lại phối hợp với dân quân Tượng Lâm chống
lại và chiếm đóng một số thành quách khác trong quận, quan quân Đông Hán phải
rút lui khỏi huyện Tượng Lâm. Năm 138, Giả Xương, quan thị ngự sử nhà Hán đi sứ
phía nam, đã cùng với các quan thái thú trong quận Nhật Nam gom quân dẹp những
cuộc nổi loạn ở huyện Tượng Lâm. Sau gần một năm, tất cả đều thất bại, và họ
còn bị quân địa phương bao vây hơn cả năm trời. Từ đó nhà Hán mất tin tưởng ở
đám quan quân địa phương và chỉ tin dùng quan quân từ Trung Hoa đưa xuống. Năm
sau Hán Thuận Đế sai tướng Cổ Xương huy động 40.000 quân ở các châu Kinh, Dương,
Duyên, Dự xuống đàn áp cuộc nổi dậy. Cổ Xương bị quân nổi loạn đánh bại, nhà
Hán sai một tướng khác là Lý Cố mang viện binh tiếp trợ nhưng Lý Cố viện các lý
do để hoãn binh. Cuộc tiến quân bị dừng lại.kế sách của Lý Cố là:
-Ly gián nội bộ những người nổi loạn
bằng cách mua chuộc những lãnh chúa địa phương nhằm làm suy yếu tiềm lực của
dân quân Tượng Lâm
-Tránh can thiệp bằng quân sự vào
tranh chấp cục bộ của người địa phương
-Chỉ để lại một quan lại người địa
phương thay mặt thiên triều cai trị
-Vấn đề lãnh đạo địa phương để cho
người địa phương chọn lấy, người thắng cuộc được thiên triều tấn phong
-Quan cai trị địa phương phải là một
lãnh chúa thần phục thiên triều-Tước Vương Hầu (dành cho người nhà Hán) và Liệt
Thổ (người địa phương). Để thực hiện mưu kế này, nhà Hán phong Trương Kiều làm
thứ sử Giao Chỉ và Chúc Lương làm thái thú Cửu Chân; cả hai có nhiệm vụ thu
thuế và nhận phẩm vật từ những quan lại được nhà Hán tấn phong. Trương Kiều đã
thu phục được hàng chục ngàn dân thường của Nhật Nam và Tượng Lâm qui thuận Hán
triều. Năm 144, dân quận Nhật Nam và huyện Tượng Lâm lại nổi lên chống lại ách
cai trị của nhà Hán, nhưng bị thứ sử Hạ Phương đánh bại. Năm 157, Chu Đạt cùng
với dân chúng Cửu Chân nổi lên giết huyện lệnh Cự Phong và thái thú Nghê Thức
chiếm quyền lãnh đạo. Sự kết hợp tự nhiên giữa dân chúng hai quận Cửu Chân và
Nhật Nam gây nhiều bối rối cho các quan quân cai trị. Dưới sự chỉ huy của đô úy
quận Cửu Chân là Ngụy Lãng, quân Hán phản công quyết liệt, giết hơn 2.000 dân
Cửu Chân, phe nổi loạn phải chạy xuống phía nam chiếm quận Nhật Nam và chống
trả lại. Trong ba năm, từ 157 đến 160, quân Tượng Lâm (khoảng 20.000 người)
tiến lên đánh quân Hán và chiếm nhiều huyện khác của Nhật Nam. Vài năm sau, năm
178, Lương Long cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại quân Hán, chiếm được nhiều
vùng đất từ Giao Chỉ đến Hợp Phố và từ Cửu Chân đến Nhật Nam; năm 181 Hán vương
cử Lã Đại mang quân sang đánh dẹp. Đến đời Hán Sơ Bình (190-193), nhân nội tình
Trung Hoa rối loạn, dân Tượng Lâm, phối hợp với dân 2 quận Cửu Chân và Nhật
Nam, nổi lên đánh đuổi quân Hán và giành thắng lợi. Năm 192, tiểu vương quốc
Champa đầu tiên phía bắc ra đời, dưới tên gọi Lâm Ấp dưới sự lãnh đạo của Khu
Liên. Tiểu vương quốc này mở đầu cuộc đấu tranh giành độc lập của người Kinh ở
phía bắc và phong trào thống nhất vương quốc Champa ở phía nam. Năm 190, người
Tượng Lâm nổi lên giết thứ sử Chu Phù và chiếm huyện thành. Vài năm sau, năm
192, dân cư Tượng Lâm lại nổi lên giết huyện lệnh (huyện trưởng) và tôn Khu
Liên, con một quan công tào (xã trưởng) địa phương, lên làm vua. Khu Liên tự
tiện xén một phần lãnh thổ cực nam của quận Nhật Nam - huyện Tượng Lâm – thành
lập một vương quốc riêng : Lâm Ấp. Lâm Ấp: một biến cố lịch sử Cho đến nay gần
như không một sử gia Việt Nam nào quan tâm đến biến cố Lâm Ấp. Có lẽ nhiều
người cho rằng Lâm Ấp không quan trọng vì không dính líu gì, nếu không muốn nói
là thù địch, với người Việt Nam. Tất cả đều rất lầm. Cuộc nổi dậy của người Lâm
Ấp là của chính dân tộc Việt Nam, người Việt cổ, vào thời đó. Lâm Ấp là một
biến cố lịch sử trọng đại, mở đầu giai đoạn đấu tranh giành độc lập của những
dân tộc bị đặt dưới ách đô hộ của người Hán. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử
Trung Hoa, một lãnh thổ đặt dưới quyền kiểm soát trực tiếp của thiên triều đã
tự tách ra và tuyên bố độc lập. Sự kiện này trái với nguyên tắc tổ chức chính
quyền của người Hoa, vì từ thế kỷ thứ hai trước công nguyên trở đi, dưới thời
nhà Hán, nguyên tắc trung ương tập quyền đã là nền tảng của các chính sách cai
trị của người Trung Hoa, không có ngoại lệ. Giao Chỉ thời đó là một phần lãnh
thổ Trung Hoa, các quan cai trị đều do thiên triều trực tiếp chỉ định, mọi ý đồ
ly khai hay tự trị đều bị trừng trị. Mục đích của chính sách trung ương tập
quyền này là giữ gìn và bảo vệ sự toàn vẹn giống nòi, người Hán không chấp nhận
bất cứ một pha trộn tạp chủng ngoài chủng tộc Hán với nhau.
Một lấn cấn khó chịu là trong suốt
thời Bắc thuộc, đại bộ phận giới "quí tộc" Lạc Việt (Lạc hầu và Lạc
tướng), và người Kinh bị khuất phục bởi văn minh và văn hóa do người Hán mang
lại đã hợp tác với người Hán trong việc quản trị đất nước, đương nhiên ở những
địa vị thấp hơn. Những cuộc nổi dậy chống lại chính sách cai trị hà khắc và
muốn tách khỏi văn minh và văn hóa của người Hán, phần lớn đều do người Mường
(hai Bà Trưng năm 42 và bà Triệu năm 248) và người Nam Đảo (Mai Thúc Loan năm
722) khởi xướng. Những cuộc nổi dậy của người Kinh - Lý Bí, Triệu Quang Phục,
Lý Phật Tử (thế kỷ 6 và 7), Phùng Hưng và Dương Thanh (thế kỷ 80, Khúc
Thừa Mỹ và Dương Đình Nghệ (thế kỷ 10) đều xuất phát từ động cơ bất mãn của những
người cộng tác không được ưu đãi hơn là ý chí giành độc lập hay muốn tách khỏi
ảnh hưởng của người Hoa. Chỉ đến thời Ngô Quyền ý chí độc lập của người Việt
mới rõ ràng nhưng người Kinh lại xem người Champa là đối thủ, nên đã không
ngừng phân biệt đối xử vì văn hóa khác biệt và uy hiếp họ trong suốt thời kỳ tự
chủ, quên hẳn quá khứ ruột thịt đã qua.
Trở về với Lâm Ấp, khi thành lập
vương quốc riêng có lẽ Khu Liên không có ý định tách rời ảnh hưởng văn minh và
văn hóa Trung Hoa, nhưng với thời gian quyết tâm tách khỏi quỹ đạo Trung Hoa
ngày càng rõ nét. Sở dĩ có sự đoạn tuyệt này là vì tổ chức chính trị xã hội của
người Hoa không còn phù hợp với nền tảng chính trị xã hội Champa nữa.
Vào thời kỳ này, thương nhân và tu
sĩ Ấn Độ đã giao tiếp mật thiết với người Champa sinh sống ven biển miền Trung.
Khi ở lại chờ thuận buồm xuôi gió trở về quê cũ, những người Ấn này đã truyền
cho giới quí tộc địa phương văn minh và văn hóa của họ, và đương nhiên truyền
luôn cả cách thức tổ chức xã hội. Khác với người Hoa, tổ chức xã hội của người
Ấn dựa trên nguyên tắc tản quyền và phân quyền, phù hợp với nếp sống và ước
nguyện tự trị của người địa phương nên rất được ưa chuộng. Đặc điểm của người
Ấn là không dùng bạo lực để áp đặt văn hóa hay uy quyền chính trị của mình trên
những xã hội khác, kém hơn, mà để các thân hào địa phương tự nguyện làm thay,
sau khi hấp thụ văn minh và văn hóa của họ. Tranh chấp văn hóa Trung Hoa và Ấn
Độ trong nội bộ Champa ngã ngũ sau khi Khu Liên qua đời, chữ Phạn cổ (sanscrit,
một loại chữ viết xuất phát từ miền nam Ấn Độ cách đây hơn 2.000 năm) trở thành
chữ viết chính thức của các triều vương. Các bia ký tìm được trong giai đoạn
này đều khắc bằng chữ Phạn. Quốc thư trao đổi của Champa với Trung Hoa thời đó
được viết bằng chữ "Hồ" (chữ cua nước Hồ Tôn Tinh, tức chữ Phạn) thay
vì chữ Hán. Văn hóa Ấn Độ, từ phía Nam đưa lên, trở thành văn hóa của toàn
vương quốc Champa. Đạo Bà La Môn và đạo Phật được phổ biến rộng rãi trong quần
chúng, lấn át ảnh hưởng đạo Khổng và đạo Lão của văn hóa Trung Hoa để lại trong
vương quốc. Cũng nên biết thờ cúng ông bà là tín ngưỡng dân gian của người bản
địa, Kinh, Chăm, do đó rất được kính trọng, giáo lý và nghi lễ các tôn giáo
khác phải thích hợp nếu muốn được ủng hộ.
Về chính trị,
các vị vua Champa đều gán ghép tên mình với một thần linh, thường là với Siva
(còn gọi là Isvara) để có độc quyền cai trị. Uy quyền vua thể hiện qua cái lọng
màu trắng mà dân gian không được dùng. Phụ tá nhà vua là các quan lại trung
ương và địa phương, được phân chia thành ba hạng : đứng đầu là hai vị tôn quan
(senapati và tapatica-hai tể tướng võ và văn), kế là thuộc quan gồm ba hạng :
luân đa đinh (dandavaso bhatah-tướng chỉ huy cấm vệ), ca luân trí đế (danay
pinang, quan hầu trầu) và ất tha già lan (yuvaraja-kế vương), sau cùng là ngoại
quan (quan lại địa phương). Quân lực Lâm Ấp khoảng từ 40 đến 50.000 người, gồm
kỵ binh, tượng binh và thủy binh, Triều đình Trung Hoa có lẽ cũng muốn chấm dứt
tình trạng tranh chấp văn hóa và chính trị kéo dài quá lâu này nên đã chấp nhận
sự ly khai một cách miễn cưỡng, họ đặt tên quốc gia mới này là Lâm Ấp, thay vì
Hồ Tôn Tinh hay Tượng Lâm như trước kia, và duy trì mối quan hệ tốt để nhận
càng nhiều phẩm vật triều cống càng tốt.
Về danh xưng, Lâm
Ấp chỉ là sự biến nghĩa của chữ Tượng Lâm. Đối với nhà Đông Hán, danh xưng Lâm
Ấp là một khinh miệt của nhà hán, vì đó chỉ là một phần đất nhỏ không quan
trọng ở vùng cực nam để thiên triều phai quan tâm trực tiếp. Sách Thuy Kinh Chú
giai thích : "Lâm Ấp là huyện Tượng Lâm, sau bỏ chữ Tượng để chỉ còn chữ
Lâm". Cũng nên biết ngôn ngữ Trung Hoa trong thời kỳ này có nhiều hạn chế
trong việc phiên âm các tên ngoại quốc : Lâm Ấp là cách phát âm Việt hóa từ chữ
Lin-yi, phiên âm từ chữ "Hindi" hay "Indi", tức người Ấn.
Có người nói đó là cách phiên âm từ chữ Phạn "Indirapura" (đất của
người Ấn Độ). Về sau người Champa đặt tên phần đất từ Quảng Bình đến Thừa Thiên
là Indrapura (đất của Indra, thần sấm sét). Lâm Ấp cũng có thể do sự phát âm
Việt hóa từ chữ "Krom" hay "Prum" (hai tộc của người Việt
cổ) mà ra. Bình dân hơn người ta giai thích : Lâm là rừng, Ấp là thôn nho
v.v... Nói chung, cho dù diễn giải thế nào Champa là một định chế độc lập với
vương triều Trung Hoa tại Giao Chỉ.
Về tên gọi Khu
Liên cũng thế, có rất nhiều tranh cãi. Sử sách Trung Hoa viết tên vị vua đầu
tiên của Lâm Ấp là Khu Liên, có sách viết là Khu Quỳ, Khu Đạt hay Khu Vương.
Nhiều sử gia cho rằng Khu Liên thuộc dòng dõi của bộ tộc Dừa ở phía Bắc… Thật
ra Khu Liên không là tên của người nào cả, đó chỉ là cách gọi một cách kính
trọng một người có ngôi vị cao trong một định chế tập thể (làng, xã, huyện…).
Đối với dân chúng địa phương, "Khu" không phải là tên riêng mà là
tước vị một tộc trưởng (lãnh chúa), phiên âm từ chữ "Kurung" (như các
vua Hùng) của người Việt cổ – hay chữ "Varman’ của người Champa từ tiếng
Phạn, có nghĩa là tước tộc trưởng, lãnh chúa hay vua.
Trước đó, năm
137, các quan đô hộ nhà Hán gọi quân phản loạn ở Tây Quyển (Quảng Bình) là
"rợ Khu Liên". Như vậy Khu Liên chỉ là tên gọi chung những người
không cùng văn hóa với người Hán ở phía nam Giao Chỉ. Tên gọi này không liên
quan gì đến danh xưng Sri Mara (tên một vị vương tôn người Champa khác cùng
thời kỳ, con bà Lona Lavana ở Panduranga) tìm thấy trên một bia ký bằng đá
granít (ngang 1 mét, dày 1 mét, cao 2,5 mét) ở làng Võ Cạnh (nay thuộc xã Vĩnh
Trung), Nha Trang.
Về địa lý,
vương quốc Lâm Ấp ở đâu, rộng hẹp như thế nào ? Còn rất nhiều điểm tối, không
ai rõ. Theo sử cổ Trung Hoa thì lãnh thổ vương quốc này là huyện Tượng Lâm
thuộc quận Nhật Nam, phía nam huyện Lô Dung (Thừa Thiên ngày nay). Đường Thư
nói Lâm Ấp từ huyện Tây Quyển (Quảng Bình) trở xuống. Đại Nam Nhất Thống Chí
nói Tượng Lâm là Bình Định và Phú Yên. Thủy Kinh Chú cho biết thủ phủ Lâm Ấp
lúc đầu không biết ở đâu, sau được biết đặt tại Khu Lật (Huế, Thừa Thiên), phía
Nam có sông Lô Dung (sông Hương) chảy qua. Một cách tóm lược, dựa vào sử sách
xưa, lãnh thổ Lâm Ấp có thể đã trải dài từ Quảng Bình đến Quảng Nam. Một số
chuyên gia Champa cho rằng Lâm Ấp là lãnh thổ Indrapura (đất của thần Indra),
từ mũi Hoành Sơn đến đèo Hải Vân, do vương triều Gangaraja, tức những người Ấn
Độ đến từ sông Gange, khai sinh ra. Sự kiện này cần được ghi nhận với tất cả dè
dặt vì cho đến nay chưa một dấu tích bia ký nào giải thích sự kiện này
Từ khi thành
lập lâm ấp đến nửa đầu thế kỷ 4, khi nhà đông hán suy yếu, sau đó nhà ngô và
nhà tấn đều phải giải quyết các vấn đề nội bộ giao chỉ, nhà nước lâm ấp có điều
kiện cũng cố và mở rộng đất nước. Hình thành một quốc gia độc lập sớm nhất đông
nam á, mang sắc thai bản địa và ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ. Từ cuối thế kỷ 4 đến
đầu thế kỷ 7, Vương quốc Champa đã chiến chinh liên miên với với giặc phương
bắc, với các triều đại tấn, tống, tùy của trung quốc. Nhà tùy suy yếu, năm 605
Vua Champa đã áp dụng chính sách hòa hoản với lân bang. Năm 618 nhà đương lên
thay nhà tùy, tình hình champa ổn định và tiếp tục phát triển. Danh xưng vương
quốc Champa là quốc hồn, quốc túy của nhân dân Champa ( Champa là tên hoa đại
hay hoa sứ ngày nay người việt nam thường trồng ở những nơi tôn nghiêm, có mùi
thơm nhẹ nhàn, thanh thoát). Ngôn ngữ dân tộc Champa thuộc nhóm gia đình ngữ
học Mã Lai đa đảo (Malayo Polynesian) hay một danh xưng khác gọi là nhóm gia
đình ngôn ngữ Nam đảo (Austronesian). Dân tộc Champa đã có trên mảnh đất lâm ấp
từ thời giai đoạn Bàu Trá- Giai đoạn đồ đá cách gần 20 thế kỷ trước công
nguyên. Đến giai đoạn kim khí sa huỳnh. Văn tự champa sử dụng chữ phạn (Sanskrit
). Văn tự Ấn Độ đi theo các nhà truyền giáo đã được phổ biến rộng rãi tại
Champa và trở thành chữ quốc ngữ của Champa. Tôn giáo lấy Bà la môn
(Brahmanism): làm quốc giáo, giữ vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, tinh
thần tộc người Champa. Bà la môn hình thành và phát triển có bề dày trên 3000
năm lịch sử Ấn Độ. Giáo lý Bà-la-môn được thiết lập trên nguyên lý của kinh
Veda. Vua sri-mara lấy giáo điều bà la môn để xây dựng đất nước champa.
Sri-mara (Khu Liên) lên ngôi năm 192, trị vì trong nhiều năm, Sử cổ Trung Hoa
(Lương thư) cho biết trong khoảng thập niên 220-230, con cháu Khu Liên có gởi
phái bộ đến thống đốc Quang Đông và các thái thú Giao Châu (Lã Đại và Lục Dận)
triều cống và duy trì quan hệ ngoại giao. Sự kiện nổi bật sau thời Khu Liên là
cuộc dấy binh của bà Triệu năm 248 tại quận Cửu Chân chống lại quân Đông Ngô
(Trung Hoa). Bà Triệu, còn gọi là Triệu Trinh Nương, là một thiếu nữ Mường cưỡi
voi ra trận làm khiếp đam quân địch. Bà Triệu cũng là mẫu người lý tưởng của chế
độ mẫu hệ : thân hình nẩy nở (vú dài ba thước !?) và can đãm (dám đứng ra gánh
vác việc nước). Có lẽ trong giai đoạn này con cái của Khu Liên gia nhập vào đội
quân của bà Triệu rất đông vì cuộc khởi nghĩa được sử Trung Hoa ghi nhận là
cuộc nổi dậy của người dân Champa. Nhà Đông Ngô phong danh tướng Lục Dận tước
An Nam hiệu úy, tức thứ sử, sang Giao Châu dẹp loạn. Lục Dận vừa dùng mưu vừa
làm áp lực chiêu dụ các bộ lạc nổi loạn. sau hơn 6 tháng cầm cự quân của Bà
Triệu bị cô lập và bị đánh bại phải chạy về miền Nam lánh nạn. Lục Dận xua quân
xuống chiếm Khu Lật (Huế), bắt theo hàng ngàn thợ khéo tay mang về Giao Châu
rồi dâng cho nhà Đông Ngô năm 260. Những vùng đất bị nghĩa quân Lâm Ấp chiếm
đóng đều bị lấy lại. Lãnh thổ Lâm Ấp trở về vị trí cũ, tức huyện Tượng Lâm,
quân Đông Ngô không dám tiến xuống xa hơn. Có lẽ truyền nhân đích tôn của Khu
Liên đã chết trong cuộc khởi nghĩa này vì không còn được nhắc tới nữa. Sách
Lương thư cho biết năm 270, cháu ngoại của Khu Liên là Phạm Hùng (Fan Hiong)
lên làm vua.
Cũng nên biết
"Phạm" ở đây là cách phiên âm Hán hóa từ chữ "Po" (hay Pô,
Phò, Pha) của người Champa tức là người đứng đầu, lãnh tụ hoặc là ngài, chứ
không phải là cách phiên âm từ chữ "varman" của người Ấn, cũng có
nghĩa là vua, vương, ngài, hay "họ Phạm" của người Việt Nam mà ra.
Cũng nên biết người Champa theo chế độ mẫu hệ, chỉ có tên chứ không có họ.
Dưới thời Phạm
Hùng, lãnh thổ champa được nới rộng tới thành Khu Túc, cạnh sông Gianh, phía
bắc và tới Khánh Hòa (Kauthara) phía nam. Phạm Hùng cũng đã chinh phục và thống
nhất các tiểu vương quốc khác nằm trong các lõm đất dọc duyên hai miền Trung :
Amavarati (Quang Nam), Vijaya (Quang Ngãi, Bình Định) và một phần lãnh thổ
Aryaru (Phú Yên). Nhưng sau hơn 10 năm chinh chiến (271-282), Phạm Hùng bị quân
Tây Tấn (do Đào Hoàng chỉ huy) đánh bại, năm 283 con là Phạm Dật (Fan Yi) lên
ngôi thay. Năm 284, Phạm Dật gởi một sứ bộ sang Trung Hoa cầu hòa, champa được
thái hòa và Phạm Dật trị vì 52 năm thì qua đời.
2.
Triều vương thứ hai (337-420) :
Phạm Dật qua
đời năm 336, một tể tướng cướp ngôi vua tự xưng Phạm Văn (Fan Wen). Văn trở
thành người thân tín của Phạm Dật và được giao trọng trách xây thành, đắp lũy,
dựng cung đài theo kiểu Trung Hoa, chế tạo chiến xa và vũ khí, chế biến dụng cụ
âm nhạc v.v... và được thăng chức tể tướng.
Dưới thời Phạm
Văn, kỹ thuật luyện sắt (rèn kiếm, đúc lao) đạt đến tột đỉnh. Nhà vua áp dụng
văn minh Ấn Độ thẳng vào đời sống : cải tổ lại hệ thống quan lại theo khuôn mẫu
Ấn Dộ, nhờ đó guồng máy tổ chức chính quyền chạy đều và mang lại hiệu qua tốt ;
xây dựng thu phu chính trị tại Khu Lật (K’iu-sou, hay Thành Lồi, Huế), hình chữ
nhật, chu vi 2100 mét, tường cao 8 mét, có 16 cửa, dân chúng sống chung quanh
chân thành, mỗi khi có loạn, các cửa thành đều đóng lại. Với thế mạnh này, Phạm
Văn đánh thắng hai nước Đại Kỳ Giới và Tiểu Kỳ Giới (có thể đây là hai vương
quốc trên đất Lào ngày nay), chinh phục nhiều bộ lạc khác như Che Phou, Siu
Lang, Khiu Tou, Kan Lou và Fou Tan (có thể là những bộ lạc thiểu số gốc Thái
trên dãy Trường Sơn), tăng cường số phụ nữ mang về từ các lãnh thổ đánh chiếm
được và tăng nhân số trong quân đội (khoảng từ 40.000 đến 50.000 người).
Năm 340, Phạm
Văn xin nhà Đông Tấn cho sát nhập quận Nhật Nam, gồm các huyện Tây Quyển, Ty
Canh, Chu Ngô, Lô Dung và một phần đất phía nam quận Cửu Chân huyện Hàm Hoan
(Thanh Hóa) vào lãnh thổ Lâm Ấp nhưng không được toại nguyện. Phạm Văn liền xua
quân tiến công vào nội địa Nhật Nam, chiếm huyện Tây Quyển, giết thứ sư Hạ Hầu
Lâm, lấy mũi Hoành Sơn (nam Thanh Hóa) làm biên giới phía bắc, cho xây lại
thành Khu Túc (cạnh sông Gianh) phòng giữ. Từ đó phần lãnh thổ từ đèo Ngang trở
xuống thuộc về Lâm Ấp và cũng kể từ đó phía bắc đèo Ngang là nơi xảy ra những
trận thư hùng giữa Lâm Ấp và Giao Châu trong suốt hai thế kỷ 4 và 5. Năm 349
nhà Đông Tấn phản công, quân Lâm Ấp bị đánh bại, Phạm Văn bị trọng thương và
qua đời, con là Phạm Phật (Fan Fo) lên thay. Phạm Phật là một vị tướng tài ba,
được nhiều sử gia cho là người mở đầu vương triều Gangaraja (Bắc Champa). Vừa
lên ngôi, Phạm Phật tấn công quân Đông Tấn tại Nhật Nam và vây thành Cửu Chân.
Năm 351, quân Lâm Ấp bị đánh bại phải bỏ chạy về phía tây tại Lãng Hồ, huyện
Thọ Lãnh (Thanh Hóa), thành Khu Túc bị chiếm, ranh giới được thiết lập lại tại
huyện Ty Canh gần sông Nhật Lệ (Quang Bình). Năm 359, quân Đông Tấn chiếm huyện
Thọ Lãnh và đánh bại quân Lâm Ấp tại vịnh Ôn Cấn, chiếm thành Khu Túc ; Phạm
Phật xin hòa và gởi sứ bộ sang Trung Hoa triều cống (372 và 377). Phạm Phật mất
năm 380 nhường ngôi cho con là Phạm Hồ Đạt. Phạm Hồ Đạt (Fan Houta) nhiều học
gia cho là vua Dharmamaharaja, hiệu Bhadra varman I, người sáng lập vương triều
Gangaraja. Dưới thời Phạm Hồ Đạt, Phật giáo tiểu thừa (Thevada) phát triển
mạnh, nhiều nhà sư đến trực tiếp từ Ấn Độ sang truyền đạo. Thành Khu Lật (Huế)
vẫn là trung tâm chính trị nhưng đổi tên thành Kandapurpura, nghĩa là Phật Bao
Thành (vì là nơi có nhiều đền đài và hình tượng Phật và Siva). Bên cạnh đó nhà
vua còn cho xây dựng thêm một trung tâm tôn giáo mới tại Amavarati, tức thánh
địa Hào Quang (nay là Mỹ Sơn, một thung lũng cách Đà Nẵng 70km về phía tây).
Nhiều đền thờ Bà La Môn được xây dựng tại Mỹ Sơn để thờ thần Siva và tượng
Linga, tượng trưng sức mạnh phái nam. Ngôi đền đầu tiên được xây bằng gỗ vào
cuối thế kỷ 4 mang tên Bradresvara, kết hợp giữa tên vua Bradravarman I và thần
Isvara (hay Siva). Kể từ thế kỷ thứ 4 trở đi lãnh tụ chính trị và tôn giáo tại
Lâm Ấp là một : thờ thần tức thờ vua, vua thay mặt thần Siva cai quan muôn dân.
Siva vừa là thần bảo hộ xứ sở vừa là vị thần giữ đền (Dvarapala) để dân chúng
đến thờ phượng và dâng lễ vật. Năm 399, Phạm Hồ Đạt mang quân chiếm quận Nhật
Nam, giết thái thú Khổng Nguyên, tiến công quận Cửu Đức, bắt sống thái thú Tào
Bính nhưng bị quân của thống chế Đỗ Viện đánh bại phải rút về dưới đèo Ngang.
Năm 413, Phạm Hồ Đạt mang bộ binh chiếm đóng Nhật Nam, ra lệnh cho thủy binh đổ
bộ vào Cửu Chân đốt phá các làng xã ven duyên. Thứ sử Đỗ Tuệ Độ mang quân ra
nghinh chiến, chém được con của Phạm Hồ Đạt là Phạm Trân Trân (tiểu vương đất
Giao Long) và tướng Phạm Kiện, bắt làm tù binh hơn 100 người, trong có một
hoàng tử tên Na Neng, tất cả đều bị chém đầu. Phạm Hồ Đạt trốn vào rừng sâu rồi
mất tích. Trong khi chưa tìm được một vị vua mới, triều đình champa tiếp tục
triều cống Trung Hoa để được yên về chính trị. Trong thời gian từ 413 đến 420,
con cháu Phạm Hồ Đạt tranh giành ngôi vua, nội chiến xảy ra khắp nơi. Năm 413,
một người con của Phạm Hồ Đạt là Địch Chớn (Ti Chen), đạo sĩ Bà La Môn, được
triều thần đưa lên ngôi vua, hiệu Gangaraja (sông Gange bên Ấn Độ). Địch Chớn
là người đam mê văn hóa Ấn Độ muốn nhường ngôi cho em là Địch Khải (Ti Kai) để
sang Ấn Độ sống những ngày cuối đời, nhưng Địch Khai sợ bị triều thần ám hại,
dẫn mẹ chạy trốn vào rừng. Ngôi báu đành nhường cho Manoratha varman, cháu Địch
Chớn nhưng tể tướng Thiếu Lâm (Tsang Lin) chống lại vì người này không được
sinh ra từ một người mẹ có dòng máu tinh khiết (tức đẳng cấp Brahman), nên bị
Manoratha varman giết chết.
3.
Triều vương thứ ba (420-530):
Năm 420, con
cháu của Thiếu Lâm ám sát vua Manoratha varman và đưa người em cùng mẹ khác cha
của Địch Chớn là Văn Địch (Wen Ti) lên thay. Văn Địch xưng hiệu là Phạm Dương
Mại I (Yan Mah hay Fan Yang Mai), có nghĩa là Hoàng tử Vàng, nhưng không trị vị
lâu vì bị chết trong một cuộc tấn công của quân Đông Tấn. Con là thái tử Đốt,
19 tuổi, được nhà Đông Tấn phong vương năm 421, hiệu Dương Mại II.
Nhân tình thế
loạn lạc bên Trung Hoa (nhà Tống dẹp nhà Đông Tấn), năm 431, Dương Mại II dẫn
hơn 100 chiến thuyền tấn công các làng ven biển tại cửa Thọ Lãnh, Tứ Hội và
Châu Ngô (quận Nhật Nam và Cửu Chân) nhưng bị đánh bại, quân Tống chiếm thành
Khu Lật, Dương Mại II chạy trốn ra Cù Lao Chàm (Quảng Nam). Năm 433, Dương Mại
II xin "lãnh" đất Giao Châu về cai trị nhưng vua Tống không chịu,
chiến tranh lại xảy ra. Năm 443 vua Tống Du Long phong thống chế Đàn Hòa Chi
làm thứ sử Giao Châu, cùng hai phó tướng là Tống Xác và Túc Canh Hiến, mang đại
quân đánh Lâm Ấp, Phạm Dương Mại II chạy thoát được ra cửa Tượng Phổ, vịnh Bành
Long (Bình Định), tổ chức lại lực lượng, tăng cường thêm nhiều đội tượng binh
rồi ra lệnh tổng phản công nhưng không địch nổi quân Nam Tống. Những người sống
sót chạy sang Láng Cháng (Luang Prabang tại Bắc Lào) tị nạn, một số chạy đến
Champassak (Nam Lào) ẩn náu. Đàn Hòa Chi thu rất nhiều vàng bạc, châu báu,
tượng đồng và đập phá rất nhiều đền đài. Sư Trung Hoa (Tống Thư) chép rằng Đàn
Hòa Chi lấy được nhiều tượng vàng (mười người mới ôm xuể), đem nấu chảy thâu
được hơn 10 vạn cân (50.000 kí-lô vàng y?). Từ đó Trung Hoa biết Lâm Ấp có
nhiều vàng nên mỗi khi có dịp là tiến quân xuống đánh cướp. Trong thời này,
nhiều nhà sư Phật giáo Trung Hoa ái mộ nét kiến trúc và tượng đài trong các đền
thờ tại Mỹ Sơn sang Lâm Ấp tìm hiểu và học hỏi rất đông, nhiều tượng Bồ Tát của
Phật giáo Đại Thừa Trung Hoa được tìm thấy trong các chùa (chùa Quang Khê)
trong vùng.
Trong lúc chạy
trốn về phía nam, Dương Mại II chinh phục luôn các tiểu vương tại Vijaya (Bình
Định), Aryaru (Phú Yên), thống nhất lãnh thổ phía Bắc. Năm 443, Dương Mại II về
lại Khu Lật, thấy cảnh hoang tàn, buồn rầu rồi mất năm 446. Lãnh thổ phía Bắc
của Lâm Ấp bị đẩy lùi về huyện Lô Dung (Thừa Thiên), con cháu Dương Mại II lại tranh
chấp quyền hành.
Năm 455 con
Dương Mại II là Phạm Chút (Fan Tou) lên ngôi, hiệu Trần Thành (Devanika). Trung
tâm chính trị vẫn tại Khu Lật, nhưng Trần Thành cho xây dựng thêm một trung tâm
văn hóa và tôn giáo mới tại Amaravati, gọi là thánh địa Hào Quang (Mỹ Sơn,
Quang Nam). Vương quốc Lâm Ấp tiếp tục được nới rộng xuống phía nam đến tận
sông Ba (Tuy Hòa), thuộc lãnh thổ Aryaru (Phú Yên) và vùng núi non phía tây lân
cận (cao nguyên Kontum, Darlac), và phía tây tới Champassak (Nam Lào), nhiều bộ
lạc Thượng sống trên dãy Trường Sơn cũng theo về triều cống. Phạm Trần Thành
mất năm 472, Lâm Ấp không có vua, nội bộ triều đình có biến động. Năm 484, một
người Khmer tên Phạm Đăng Căn Thăng (Kieou Tcheou Lo), con vua Phù Nam
Jayavarman tị nạn tại Lâm Ấp, cướp ngôi và cầm quyền trong gần 20 năm. Năm 492,
con Phạm Trần Thành là Phạm Chư Nông giết Căn Thăng giành lại ngôi báu. Phạm
Chư Nông bị chết đuối năm 498, con cháu tiếp tục trị vì đến năm 527 : Phạm Văn
Tổn (Fan Wen Kuoan) trị vì từ 498 đến 502, Phạm Thiên Khởi hiệu Devavarman
(510-514) và Cao Thức Thắng Khơi hiệu Vijayavarman hay Bật Tôi Bật Ma
(526-527).
4.
Triều vương thứ tư (529-757) :
Năm 529,
Vijayavarman mất không người kế tự. Triều đình champa phong Luật Đa La Bật Ma
lên làm vua, hiệu Rudra varman I. Năm 577 Luật Đa La Bật Ma mất, con là
Prasasta dharma lên kế nghiệp, hiệu Phạm Phạn Chi (Sambhu varman). Dưới thời
Phạm Phạn Chi, văn hóa champa tỏa rộng khắp Đông Nam Á. Năm 598, nhà Tùy chiếm
đóng Lâm Ấp và phân chia thành ba châu : châu Hoan (Ty Canh), châu Ái (Hai Âm)
và châu Trong (Khương). Năm 605, Phạm Phạn Chi dời kinh đô về Sinhapura, thành
phố Sư Tử (nay là Trà Kiệu, cạnh sông Thu Bồn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quang
Nam). Danh xưng Champa chính thức xuất hiện trong thời này.
Năm 629 Phạm
Phạn Chi mất, con là Phạm Đầu Lê (Kandharpar dharma) kế nghiệp. Năm 645 Phạm
Đầu Lê qua đời, vương triều champa loạn lạc. Phạm Trấn Long (Prabhasa dharma),
con Đầu Lê, vừa giành được ngôi vua liền bị giết chết, dân chúng đưa con trai
của một công chúa, em gái của Trấn Long, tên Chư Cát Địa lên làm vua, hiệu
Bhadresvara varman (sự ghép tên giữa thần Bradresvara và vị tổ Bradra varman).
Chư Cát Địa làm vua được một năm (646) thì bị triều thần lật đổ, công chúa
Tchou Koti, con gái của chánh phi của Phạm Đầu Lê, được tôn lên làm nữ vương,
hiệu Jagad dharma. Đức độ của bà Jagad dharma rất được dân chúng kính trọng.
Sau khi qua đời, nữ vương Jagad dharma được dân chúng lập đền thờ tại tháp Po
Nagar (Xóm Bóng, Nha Trang). Năm 653 Tchou Koti nhường ngôi cho chồng (người
Khmer) tên Prakasa dharma (Po Kiachopamo), hiệu Vikranta varman I. Năm 685
Vikranta varman I qua đời, nhường ngôi cho con là Vikranta varman II
(Kientotamo).
Dưới thời
Vikranta varman II, văn hóa champa tỏa khắp Đông Nam Á, các quốc gia lân bang
đều muốn kết thân. Năm 731, Vikrantavarman II qua đời, con là Rudravarman II
(Lutolo) trị vì đến năm 757 thì mất. Con là Bhadravarman II lên thay nhưng bị
các vương tôn miền Nam hạ bệ, chấm dứt vai trò lãnh đạo của vương triều miền
Bắc.
5-Triều
vương thứ năm (758-854) :
Năm 757, một
tiểu vương phía Nam nổi lên hạ bệ Bhadra varman II nhà vua trẻ vừa lên ngôi , rồi
tự xưng vương, hiệu Prithi Indra varman, chấm dứt dòng Gangaraja phía
Bắc.
Theo bia ký đọc
được, Prithi Indra varman là người đã thống nhất lãnh thổ Champa một cách chính
danh nhất, vì được triều thần công nhận là "người thống lãnh toàn bộ đất
nước như Indra, thần của các vị thần". Tuy đất nước đã được thống nhất,
lãnh thổ này vẫn chưa có tên. Khi sang Trung Hoa triều cống, không biết sứ thần
của Prithi Indra varman đã giải thích như thế nào mà sử liệu cổ Trung Hoa đặt
tên lãnh thổ mới của người Champa trong thời kỳ này là Hoàn Vương Quốc,
"vương quyền trở về quê cũ". Để xác minh điều này, việc làm đầu tiên
của Prithi Indra varman là dời kinh đô Sinhapura (thành phố sư tử hay Trà Kiệu,
Quảng Nam) về Virapura (thành phố Hùng Tráng, nay là thôn Palai Bachong, xã Hòa
Trinh, huyện An Phước - cách Sài Gòn 310 cây số về phía Bắc trên quốc lộ 1,
tỉnh Ninh Thuận).
Dưới thời
Prithi Indra varman, văn minh và văn hóa Ấn Độ từ phía Nam đưa lên lấn át toàn
bộ sinh hoạt của người Chăm phía Bắc ; chữ Phạn được phổ biến rộng rãi trong
giới vương quyền và các nơi thờ phượng ; đạo Bà La Môn được đông đảo người theo
; đạo Phật Tiểu Thừa (Thevada) phát triển mạnh trong chốn dân gian ; đền đài,
dinh thự và chùa tháp được xây dựng lên khắp nơi, nhiều nhất là tại Khu Lật
(Huế), Amavarati (Mỹ Sơn), Sinhapura (Trà Kiệu)… để tạ ơn thần linh. Tuy vậy
nguyên tắc tự trị của các tiểu vương quốc phía Bắc vẫn được tôn trọng, vì không
thấy di ảnh hay hình tượng nữ thần Bhagavati -vị thần bảo hộ Panduranga được
Prithi Indravarman chọn làm "Bà Mẹ xứ sở" để dân chúng thờ phượng, các
di tích khảo cổ lãnh thổ Champa phía Bắc.
Về "Bà Mẹ
xứ sở", ngôi tháp bằng gỗ trước kia thờ nữ vương Jagadharma (646-653) được
Prithi Indravarman cho xây dựng lại bằng vật liệu cứng tại Aya Tră (Nha Trang),
trên một ngọn đồi cao cạnh cửa sông Cái (Xóm Bóng), để thờ tượng nữ thần
Bhagavati (bằng vàng). Tháp này về sau được biết dưới tên Po Nagar, hay Tháp
Bà.
Truyền thuyết
Champa cho rằng Hoàn Vương Quốc trước kia do nữ vương Po Nagar cai trị trong
suốt 200 năm, từ 758 đến 958. Thời gian trị vì lâu dài này là thời gian mà
vương triều Panduranga thịnh hành. Nữ vương Po Nagar - còn gọi là Yan Pu
Nagara, Po Ino Nagar hay Bà Đen (nguời Việt Nam gọi là Thánh Mẫu Thiên Y Ana) -
là vị nữ thần được tạo nên bởi áng mây trời và bọt biển, người tạo dựng ra quả
đất, sản sinh gỗ quí, cây cối và lúa gạo. Bà có 97 phu quân, trong đó chỉ một
mình Po Yan Amo là người có uy quyền và được tôn trọng hơn cả. Bà có 38 người
con gái, tất cả đều hóa thân thành nữ thần, trong đó có ba người được người
Champa chọn làm thần bảo vệ đất đai và còn thờ phượng cho tới ngày nay: Po
Nagar Dara, nữ thần Kauthara (Khánh Hòa), Po Rarai Anaih, nữ thần Panduranga (Ninh
Thuận)và Po Bia Tikuk,nữ thần Manthit (Phan Thiết).
Prithi Indra varman
là một quân vương tài giỏi, đất nước thái bình và rất phồn vinh. Sự giàu có của
Hoàn Vương Quốc hấp dẫn các vương quốc lân bang, đặc biệt là Srivijaya (Palembang),
Malayu (Malaysia), Javadvipa (Java), Nagara Phatom (Thái Lan), Sriksetra
(Miến Điện) và Angkor(Chân Lạp), họ đến để trao đổi hoặc chờ dịp cướp
phá.
Năm 774, quân
Nam Đảo từ ngoài khơi đổ bộ vào Kauthara và Panduranga, chiếm Virapura. Vua
Prithi Indra varman đã chống trả lại mãnh liệt nhưng bị chết trong đám loạn
quân (sau này được dân chúng tôn thờ dưới pháp danh Rudraloka). Một bia ký đọc
được ở tháp Po Nagar ghi "những người đen đủi và gầy yếu từ miền xa đến,
ăn những thức ăn khủng khiếp hơn xác chết, lại có tính hung ác. Bọn người này
đi mành đến lấy cắp tượng linga của thần Sri Sambhu, đốt phá đền thờ [Po
Nagar]". Sau cuộc tấn công này quân Nam Đảo cướp đi rất nhiều báu vật, có
tượng nữ thần Bhagavati bằng vàng.
Ngay khi Prithi
Indra varman vừa tử trận, một người cháu gọi ông bằng cậu tên Satya varman được
hoàng tộc tôn lên thay thế. Nhưng vừa lên ngôi, Satya varman đã cùng hoàng tộc
chạy lên miền Bắc (Bình Định) lánh nạn. Tại đây, nhà vua được cộng đồng người
Chăm và người Thượng địa phương (Bahnar, Hré) giúp thành lập một đạo quân hùng
mạnh tiến xuống Kauthara tấn công quân Nam Đảo. Trước uy lực của Satyavarman,
quân Nam Đảo lên thuyền bỏ chạy ra khơi, tân vương dẫn hoàng gia về lại
Virapura. Tại đây, nhà vua xây thêm một cung điện mới trong thành Krong Laa và
không ngờ đã sáng chế ra một phong tục mới mà các đời vua sau bắt chước theo,
đó là tục trồng cây Kraik, biểu tượng của hoàng gia, trước cung điện. Đền Po
Nagar, bị quân Nam Đảo phá hủy, được Satya varman cho dựng lại bằng gạch, 10
năm sau (774-784) thì hoàn thành và tồn tại cho tới ngày nay. Năm 786, Satya varman
mất (được dân chúng thờ phượng dưới pháp danh Isvaraloka), em trai út của ông
được hoàng tộc đưa lên ngôi, hiệu Indravarman I (786-801).
Hay tin Satya varman
từ trần, năm 787, quân Java từ ngoài khơi lại tràn vào Virapura cướp phá, sát
hại rất nhiều binh sĩ và dân chúng, phá tháp Hòa Lai thờ thần
Bhadradhipatisvara tại Virapura. Quân Nam Đảo chia ra làm hai nhóm, một nhóm
bắt theo nhiều phụ nữ cùng báu vật chở về nước, một nhóm khác chiếm giữ
Panduranga. Phải hơn mười năm vất vả Indravarman I mới đuổi được quân Nam Đảo
ra khơi để khiến thiết lại xứ ở (năm 799). Tại Virapura, nhà vua xây lại tháp
Hòa Lai bằng ba tháp mới, gọi là Kalan Ba Tháp, thờ các thần Indrabhadresvara,
Sankara và Narayana. Cũng vất vả lắm Indravarman I mới dẹp yên được một số giặc
giã nổi lên từ khắp nơi, như tại Candra (phía bắc), Indra (đông-bắc), Agni
(phía đông), Yama (đông-nam), quan trọng nhất là loạn Yakshas (phía nam).
Yakshas là những bộ lạc Thượng cư ngụ trên lãnh thổ đế quốc Angkor chứ không
phải là quân Khmer.
Đầu thế kỷ thứ
9, Indra varman I mất, em rể là hoàng thân Deva Rajadhiraja lên thay, hiệu Hari
varman I, mở đầu một trang sử mới.
Trong hai năm
đầu tân vương dồn mọi nổ lực xây dựng lại đất nước và phục hồi thế lực quân sự.
Để nhận thêm sự ủng hộ của quần chúng, nhà vua sai tể tướng Senapati Pangro
trùng tu lại tháp Po Nagar và xây thêm hai tháp mới cạnh tháp chính, một ở
hướng nam và một ở hướng tây-bắc để dân chúng đến chiêm bái tượng nữ thần
Bhagavati, được tạc lại bằng đá hoa cương.
Sau những cố
gắng vượt bực, Hoàn Vương Quốc hưng thịnh trở lại, Hari varman I quyết định trả
thù những quốc gia đã tấn công và cướp bóc đất nước của ông trước đó. Tháng 1-803,
quân Chăm tấn công châu Hoan (Tỷ Cảnh, nay là Thanh Hóa) và châu Ái (Hải Âm,
nay là Nghệ Tĩnh), mang về rất nhiều phẩm vật. Với lượng lúa gạo mang về miền
Bắc, thủy quân Hoàn Vương Quốc xuất dương trừng phạt vương quốc Kelantan ở Java
và Patani ở Malaysia. Khi trở về, nhà vua cho người lên Tây Nguyên mộ thêm binh
sĩ và được sự hưởng ứng nồng nhiệt của người thiểu số. Với đạo quân này, hai
lần (nam 803 và 817), Harivarman I tiến vào cao nguyên Đồng Nai thượng, đánh
bại quân Khmer và kiểm soát một vùng đất rộng lớn.
Để có thêm
nguồn lương thực, năm 808, Harivarman I xua quân đánh chiếm châu Hoan và châu
Ái lần nữa, nhưng bị thái thú Trương Châu đánh bại : 59 người trong hoàng tộc
bị bắt sống, nhiều thớt voi, tàu chiến và quân trang quân dụng bị tịch thu, hơn
3 vạn người bỏ xác tại trận. Về con số ba vạn người bị chết này, tưởng cũng nên
tương đối hóa nó vì thời đó người Hoa chưa phát minh ra số "không"
(zéro) do đó cái gì nhiều quá, đếm không xuể đều được ghi là "vạn" ;
con số ba vạn ở đây có thể do nhiều đơn vị khác nhau cùng báo cáo và cũng có
thể được thổi phồng để được triều đình trung ương khen thưởng, vì qua năm sau,
năm 809, Harivarman I tái chiếm châu Hoan và châu Ái một cách dễ dàng và mang
về rất nhiều phẩm vật.
Không rõ Hari varman
I mất năm nào nhưng con trai là tiểu vương (pulyan) đất Panduranga lên kế vị
năm 817, hiệu Vikranta varman III. Vì tân vương còn nhỏ tuổi, triều thần phong
tể tướng Senapati Par, tiểu vương đất Manidhi (?), làm phụ chính. Viên tể tướng
này đã tổ chức nhiều cuộc tấn công vào lãnh thổ Kambujas (Kampuchea ngày nay),
do vua Jayavarman II cai trị, phá nhiều thành trì khmer trên cao nguyên Đồng
Nai thượng. Để tạ ơn Bà Mẹ Xứ Sở, trong khuôn viên Po Nagar, Senapati Par cho
xây thêm hai tháp mới về phía tây và tây-nam, thời gian sau xây thêm ba tháp
khác : một tại khu trung tâm thờ Sri Shambu, một phía tây-bắc thờ Shandhaka và
một phía nam thờ Ganesha. Mặc dù vậy, trung tâm chính trị và tôn giáo vẫn được
duy trì tại Virapura, thủ phủ Panduranga.
Dưới thời
Vikrantavarman III, Hoàn Vương Quốc rất là giàu có, quân lực rất là hùng mạnh.
Một bia ký, tìm được tại tháp Po Nagar, mô tả Vikran tavarman III như sau :
"Người đeo những dây vàng có đính ngọc trai và ngọc bích, giống như mặt
trăng tròn đầy đặn, che một chiếc lọng trắng bao phủ cả bốn phương trời bởi vì
lọng còn sâu hơn cả đại dương, thân thể Người trang sức phủ kín bởi vương miện,
đai, vòng, hoa tai, những tràng hồng ngọc... bằng vàng, từ đó phát ra ánh sáng
giống như những cây leo [sáng lấp lánh]". Thư tịch cổ Trung Hoa (Cựu Đường
thư) mô tả thêm : "Vua mặc áo cổ bối bạch diệp... trên đeo thêm trân châu,
dây chuyền vàng làm thành chuỗi...". Đẳng cấp quí tộc và phụ nữ cung đình
cũng đeo trang sức quí : "Phu nhân mặc vải cổ bối triệu hà... mình trang
sức dây chuyền vàng, chuỗi ngọc trai" Quân đội trang bị nhiều loại vũ khí
khác nhau...".
Với thời gian,
Hoàn Vương Quốc trở thành nạn nhân của sự giàu có của mình, các thế lực lân
bang liên tục tràn vào cướp phá. Trong suốt hơn 20 năm, từ 854 đến 875, quân
của đế quốc Angkor đã nhiều lần tiến đánh Hoàn Vương Quốc, chiếm nhiều vùng đất
rộng lớn dọc tả ngạn sông Đồng Nai, đôi khi còn băng cao nguyên Langbian đột
nhập vào lãnh thổ Panduranga cướp phá.
Vikranta varman
III mất năm 854 (được thờ dưới pháp danh Vikrantasvara), không người kế tự, nội
bộ triều đình xảy ra tranh chấp.
6-Triều vương thứ sáu (859-991) :
Sau hơn 20 năm chinh chiến với Angkor quyền hành trong nước lọt dần vào tay
các dòng vương tôn miền Bắc, chính họ đã chống trả lại các đợt xâm lăng của đế
quốc Angkor.
Năm 859, một
vương tôn mang nhiều chiến công, tên Laksmindra Bhumisvara Gramasvamin, được
triều thần đưa lên ngôi, hiệu Indravarman II.
Mặc dù là truyền
nhân đích tôn của các đời vua trước (ông nội là Rudravarman II, cha là
Bhadravarman II), Indravarman II lên ngôi do "dày công tu luyện, do sức
mạnh của trí tuệ trong sáng", vì Indra là thần trên các vị thần. Sau khi
qua đời ông được dân chúng thờ dưới tên Paramabuddhaloka.
Dưới thời
Indravarman II, trung tâm quyền lực chính trị và tôn giáo được dời lên phía Bắc
tại Indrapura - thành phố Sấm Sét (nay là Đồng Dương, cách Đà Nẵng hơn 50km về
phía nam) trên bờ sông Ly Ly (một nhánh sông Thu Bồn, cách thánh địa Trà Kiệu
15 cây số). Vị trí của Indrapura rất thuận lợi trong việc phòng thủ chống lại
những cuộc tiến công của quân Khmer và quân Nam Đảo.
Phật giáo Đại
Thừa cũng phát triển mạnh trong giai đoạn này, nhiều nhà sư Trung Hoa được phép
đến Indrapura truyền đạo, xây chùa chiền và thu nạp giáo đồ, nhưng không mấy
thịnh hành. Indra varman II là người đã dung hòa được hai tôn giáo lớn nhất
thời đó (Bà La Môn và Phật giáo) trong dân gian và xã hội : nhiều Phật viện
(Vihara), Phật đường, tu viện, đền thờ được xây dựng khắp nơi lãnh thổ, một bảo
tháp dài 1.330m tên Laksmindra Lokesvara được xây dựng cạnh đền thờ Bà La Môn (một
tượng Buddha thời này, cao1,14m,được tìm thấy tại Đồng Dương năm 1978). Đẳng
cấp tu sĩ (Brahman) rất được trọng vọng, đạo Bà La Môn rất thịnh hành. Indra varman
II rất tự hào vì các đại thần dưới quyền đều là những người Brahman và
Ksatriya, chính nhà vua cũng là một Brahman.
Quốc hiệu
Champapura (đất nước của người Chăm, theo tiếng Phạn cổ) được Indra varman II
chính thức sử dụng khi tôn vinh đất nước mình. Sử sách Trung Hoa phiên âm là
Chang Cheng (từ chữ Campapura hay Campa mà ra), tiếng Việt là Chiêm Thành hay
Chiêm Bà, tiếng Tây phương là Champa. Trong thực tế, Champa là tên của một cây
có hoa màu trắng, nhụy vàng, hương rất thơm. Tiếng Việt gọi là hoa đại hay bông
sứ. Loài hoa này được trồng quanh cung điện của các vua và đền thờ của người
Champa ; sau này được trồng tại nhiều nơi thờ tự của các tôn giáo khác ở miền
Trung và các gia trang có sân vườn rộng. Mỗi dịp lễ lạc người Champa thường hái
bông sứ dâng lên bàn thờ, mùi hương tỏa ngát không gian của đền thờ. Champa
cũng là tên một địa danh miền bắc Ấn Độ, trên con sông Hasdo, tỉnh Madhya
Pradesh, gần thành phố Bhagalpur (Bilaspur). Các vị lãnh đạo Champa thường đặt
tên triều vương, lãnh thổ và thành phố của mình theo tên các địa danh đã có tại
Ấn Độ. Champa dưới thời Indra varman II rất là hùng mạnh, hai miền Nam-Bắc được
thống nhất trong hòa bình. Trong những năm 861, 862 và 865, quân Champa tổ chức
nhiều cuộc tấn công vào phủ An Nam, mang về rất nhiều lương thực và của cải. Năm
889 vua Angkor Yasovarman hai lần tiến quân vào Champa nhưng đều bị đánh bại và
chết trong rừng sâu (năm 890), một phần đất trên Đồng Nai thượng và lãnh thổ
đông-bắc Angkor (cao nguyên Rattanakiri và Mondolkiri) đặt dưới quyền kiểm soát
của Champa
Năm 890 Indra varman
II mất, cháu là hoàng thân Jaya Sinhavarmadeva Campapura Paramesvara kế vị,
hiệu Jaya Sinhavarman I. Tân vương được nhiều danh tướng Ajna Jayendrapati,
Ajna Narendranpavitra, Sivacarya, Po Klun Pilih Rajadvara… tận tình giúp đỡ.
Nhà vua tiếp tục cho xây thêm nhiều đền đài tráng lệ, tu viện Phật giáo quanh
thánh địa Đồng Dương. Tượng nữ thần Bhagavati được cho đúc lại bằng vàng thờ
trong chính điện tháp Yan Po Nagara.
Uy quyền của
vương triều Indrapura nới rộng lên đến Tây Nguyên. Cao nguyên Darlac-Kontum do
một tiểu vương người Thượng, tên Mahindravarman, cai trị. Nhiều đền đài Chăm
được xây cất trong thung lũng sông Bla gần Kontum (đền Kon Kor được xây cất năm
914 thờ thần Mahindra Lokesvara).
Jaya Sinha varman
I mất năm 898, con là Jaya Sakti varman lên thay (899-901). Những vị vua tiếp
theo – Bhadra varman II (901-918) và con là Indra varman III (918-959) - tiếp
tục sự nghiệp của cha ông trong lãnh vực tôn giáo: đạo Bà La Môn trở thành quốc
giáo.
Qua trung gian
những gia đình hoàng tộc gốc Nam Đảo - Rahdar Ahmed Abu Kamil, Naqid Amr Ali -
trốn chạy chính sách cai trị khắc nghiệt của những tiểu vương Java, được tể
tướng Po Klun Pilih Rajadvara nhận vào tị nạn, đạo Hồi chính thức được phổ biến
trong chốn hoàng gia. Với thời gian, đạo Hồi được đông đảo quần chúng bình dân
tin theo. Nhân cơ hội, những gia đình quí tộc tị nạn này truyền bá luôn văn
minh và văn hóa Nam Đảo, đặc biệt là lối kiến trúc và cách điêu khắc cho nghệ
nhân Chăm. Vào thời này, người Chăm đã nắm vững kỹ thuật đi biển, biết buôn
bán, giao hảo tốt với các quốc gia lân bang Trung Hoa và Java.
Vừa lo ngại vừa
ganh tị sức mạnh và sự giàu có của Champa, năm 945 vua Khmer là Rajendra varman
II cùng binh sĩ băng rừng từ Angkor vào Kauthara, cướp tượng nữ thần Bhagavati
bằng vàng - vị thần bảo vệ xứ sở và là biểu tượng uy quyền của Champa - trong
tháp Yan Po Nagara mang về nước ; từ sau ngày đó, vương triều Indra varman III
suy yếu hẳn.
Dưới thời Indra
varman III, biến cố quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn vong của vương quốc Champa
là sự hình thành một vương quốc độc lập phía Bắc nước Đại Cồ Việt, nhưng chỉ
thực sự để lại hậu quả các triều vua sau. Năm 959, Indravarman III từ trần, con
là Jaya Indra varman I lên thay năm 960. Việc làm đầu tiên của tân vương là cho
tạc lại tượng nữ thần Bhagavati bằng đá hoa cương để dân chúng đến thờ, năm 965
mới xong. Năm 972, Jaya Indra varman Iraq từ trần, con là Phê Mi Thuế,
Paramesvara varman I (972-982), lên thay. Sinh hoạt chính trị của Champa trong
giai đoạn này rất là hỗn độn, năm 978, một người tên Kinan Tache mang phẩm vật
sang Trung Hoa triều cống để được phong làm vua Champa nhưng không được nhà
Tống nhìn nhận. Trong lúc đó, lợi dụng tình trạng loạn lạc tại Đại Cồ Việt
(loạn thập nhị sứ quân, từ 944 đến 972), quân Champa nhiều lần tiến lên đánh
phá những quận huyện ở phía nam, gây nhiều thiệt hại nhân mạng và tài
sản.
Năm 979, hay
tin Đinh Tiên Hoàng bị ám sát, Ngô Nhật Khánh, một sứ quân Đại Cồ Việt, thuyết
phục vua Paramesvara varman I, dẫn hơn một ngàn chiến thuyền từ Champa vào
chiếm Hoa Lư, nhưng không thành. Ngô Nhật Khánh bị giết, quân Champa phải rút
về.
Tình hình chính
trị của Đại Cồ Việt trong giai đoạn này cũng không lấy gì làm sáng sủa: triều
đình không có vua, Hạng Lang tức Đinh Vệ Vương còn quá nhỏ (6 tuổi), mẹ là thái
hậu Dương Vân Nga không thể một mình đảm đương việc nước vì phía Bắc quân Tống
lăm le tiến xuống, phía Nam quân Champa sẵn sàng tiến lên. Năm 980, Dương Vân
Nga nhường cho Lê Hoàn làm vua Đại Cồ Việt, hiệu Lê Đại Hành hoàng đế. Tân
vương sai sứ sang Trung Hoa báo tin, dâng vài tù binh Champa vừa bắt được làm
quà biếu. Vua Tống nhận tặng phẩm nhưng lại muốn duy trì ảnh hưởng tốt với
Champa, sai thống đốc Quảng Châu cho những tù binh Champa ăn uống rồi thả về
nước.
Bực mình trước
tin này, Lê Đại Hành sai Từ Mục và Ngô Tử Canh sang Champa yêu cầu vua Champa
sang bái kiến. Paramesvara varman I, sau khi nhận lại tù binh từ nhà Tống và
tin chắc sẽ được Bắc triều bênh vực nếu bị Lê Đại Hành tấn công, đã không những
không sang bái kiến mà còn bắt giam sứ giả. Lê Đại Hành rất giận nhưng chưa có
phản ứng.
Sau khi đánh
đuổi quân Tống ra khỏi lãnh thổ phía Bắc cuối năm 980, Lê Đại Hành củng cố lại
lực lượng chuẩn bị tấn công Champa. Đầu năm 982, nhà vua dẫn đại quân tiến vào
Indra pura. Đây là cuộc Nam chinh đầu tiên của người Việt vào đất Champa. Paramesvara
varman I tử trận ngay tại cửa thành, chấm dứt triều đại Indrapura. Lê Đại Hành
tiến vào kinh đô Indrapura (Đồng Dương), giết tướng giữ thành Tỳ My Thuế, bắt
sống hàng trăm vũ nữ trong hậu cung, tịch thu rất nhiều báu vật mang về nước. Bên
ngoài binh lính Việt đốt phá thành trì, san phẳng lăng tẩm các vị vua Champa, bắt
theo hàng ngàn tù binh, trong đó một nhà sư Ấn Độ tên Thiền Trước Tăng (bhiksu).
Lãnh thổ Bắc Champa bị chiếm đóng từ 982 đến 983.
Sau chiến thắng
này, văn hóa và nghệ thuật (nhất là âm nhạc) Champa chính thức được du nhập vào
đời sống cung đình và dân gian Việt. Đền đài, dinh thự tại Hoa Lư được trang
trí bằng những chiến lợi phẩm do thợ Champa chạm trổ và sản xuất ra.
Indravarman IV (Xá
Lợi Đà Ngô Nhựt Hoàn) được hoàng triều tôn lên làm vua khi Paramesvara varman I
vừa tử trận chạy vào Panduranga lánh nạn và chịu triều cống nhà Lê mới được
yên. Năm 985 Nhựt Hoàn sai pháp sư Kinkoma sang Trung Hoa xin nhà Tống cứu viện
nhưng được khuyên là nên duy trì quan hệ tốt với Đại Cồ Việt.
Nội bộ nhà Lê
cũng xảy ra tranh chấp về quyền lãnh đạo trên lãnh thổ Bắc Champa, người thì đề
nghị cai trị trực tiếp, người thì khuyên tản quyền. Cuối cùng một giải pháp
trung gian được áp dụng : nơi nào còn đông đảo người Champa cư ngụ thì giao cho
người địa phương quản lý, nơi nào đông dân cư gốc Kinh sinh sống thì triều đình
Đại Cồ Việt đặt quan cai trị trực tiếp. Sự kiện này chứng tỏ sự cộng cư giữa
các nhóm cư dân địa phương sau khi Lâm Ấp giành được độc lập vẫn còn khắng
khít, nhưng từ khi người Kinh bắt đầu cai trị trực tiếp lãnh thổ Bắc Champa
chống đối bắt đầu xảy ra.
Năm 983, một
quản giáp (trưởng làng) người Kinh sinh sống trên lãnh thổ Bắc Champa tên Lưu
Kỳ Tông nổi lên chém đầu một người con nuôi của Lê Đại Hành, lúc đó là một quan
cai trị trực tiếp, xây thêm thành lũy quanh Phật Thành (Fo Che) phòng thủ lãnh
thổ Bắc Champa, rồi mộ hơn 10.000 người và nhiều voi ngựa đánh Đại Cồ Việt. Lê
Đại Hành tiến quân xuống đánh nhưng cuộc chiến đã không xảy ra, vì sau khi vượt
núi Đông Cổ và sông Bà Hòa (Thanh Hóa), đại quân của nhà Tiền Lê chịu không nổi
sương lam chướng khí phải rút về. Năm 986, hay tin vua Indravartman IV (Ngô
Nhựt Hoàn) của người Champa từ trần, Lưu Kỳ Tông liền tự xưng vương và xin nhà
Tống thừa nhận. Sự tiếm quyền này xúc phạm đến tín ngưỡng của người Chăm vì Lưu
Kỳ Tông không xuất thân từ vương tộc hay đẳng cấp tôn giáo nào, và là một đe
dọa cho cộng đồng người Hoa địa phương. Một người Champa gốc Hoa tên Poulo Ngo
dẫn theo khoảng 150 người đổ bộ lên đảo Hải Nàm và vùng duyên hải nam Quảng
Châu tị nạn. Năm 988, thêm 300 người khác do Ho Siuan dẫn đầu đổ bộ lên bờ biển
Quảng Châu. Người Chăm gốc Nam Đảo còn lại theo Bằng Vương La (Cu-thì-lợi
Hà-thanh-bài Ma-la), một người Cham sinh sống tại Bàn Thành, kháng chiến chống
Lưu Kỳ Tông
7- Triều
vương thứ bảy (991-1044): vương triều Vijaya
Năm 989 Lưu Kỳ
Tông một người Kinh tự nhận là vua lãnh thổ Champa phía Bắc từ năm 983, bị Bằng
Vương La (Cu-thì-lợi Hà-thanh-bài Ma-la), một vương tôn Champa phía Nam, nổi
lên lật đổ và được dân chúng tôn lên làm vua, hiệu Harivarman II (Dương-to-pai
hay Dương Đà Bài). Hari varman II xưng vương tại Phật Thành (Vijaya), nhưng tổ
chức vương quyền vẫn đặt tại Indrapura (Đồng Dương), ý muốn đề cao nguồn gốc
thần quyền của ông từ bộ tộc Dừa. Hari varman II được nhiều sử gia xác nhận là
người sáng lập vương triều thứ bảy của Champa
Năm 990, một
người Việt tên Dương Tiến Lộc làm quan quản giáp đi thu thuế tại châu Ái và
châu Hoan (Thanh Hóa, Nghệ An ) hô hào người Kinh và Chăm nổi lên chống lại nhà
Lê. Dương Tiến Lộc có yêu cầu Hari varman II giúp đỡ nhưng bị từ chối. Hay tin
có phản loạn, Lê Đại Hành liền mang quân vào đánh dẹp, Dương Tiến Lộc cùng
những người phản loạn bị giết chết, hơn 360 tù binh Chăm bị bắt mang về miền
Bắc, một số tuyển làm nài điều khiển voi trong binh lực nhà Lê.
Năm 992, quan
hệ giữa nhà Lê và vương triều Vijaya trở nên bình thường và để tỏ lòng biết ơn
Hari varman II từ chối không ủng hộ cuộc phản loạn của Dương Tiến Lộc, Lê Đại
Hành trả tự do cho hơn 300 tù binh Champa về nước. Cũng nên biết làn ranh phân
chia Đại Cồ Việt và Champa trong giai đoạn này được xác định tại đèo Ngang, tức
địa phận Di Luân, gần cửa sông Gianh (Quảng Bình). Cùng thời gian này, quan hệ
giữa Champa và Trung Hoa trở nên bình thường, Hari varman II được nhà Tống công
nhận, hai bên trao đổi nhiều phẩm vật quí giá. Nhân dịp này Harivarman II yêu
cầu vua Tống giao trả những người Champa tị nạn tại Quảng Châu trước đó
(986-988) về lại Champa.
Mối giao hảo
thân thiết giữa Champa và Trung Hoa không làm vua Lê hài lòng. Năm 994, Lê Đại
Hành cho người vào Viyaja yêu cầu Hari varman II triều cống nhưng bị từ chối,
vua Lê liền cất quân sang đánh. Quân Champa tuy có đẩy lui được cuộc trừng
chinh này nhưng hao tổn cũng khá nhiều, Hari varman II chấp nhận sẽ triều cống
trở lại. Nhưng Lê Đại Hành yêu cầu phải triều cống tức khắc và buộc Hari varman
II phải đích thân sang bái kiến mới vừa lòng. Vua Champa liền sai một thân tín
tên Chế Đông sang thay mặt, Lê Đại Hành trách là vô lễ ; Hari varman II phải
sai cháu là Chế Cai sang chầu và hứa sẽ không quấy phá vùng biên giới nữa mọi
việc mới yên. Tuy vậy trong những năm 995 và 997, do thiếu đói vì mất mùa quân
Champa có tràn sang cướp phá một số làng xã dọc vùng biên giới rồi rút về liền.
Lê Đại Hành cũng chỉ củng cố lại một số địa điểm phòng thủ chứ không trả đũa ;
một số gia đình nông dân nghèo gốc Kinh được đưa vào lập nghiệp trên một phần
lãnh thổ Bắc Champa, sau này có tên là Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh.
Năm 999, Hari varman
II mất, con là Po Alah (Po Ovlah hay Âu Loah) - một tín đồ Hồi giáo trung kiên
đã từng sang La Mecque hành hương - lên thay, hiệu Yanpuku Vijaya (Dương-phổ-cu
Bi-trà-xá-lợi). Trung tâm quyền lực đặt tại Vijaya, tức thành phố Chiến Thắng
(còn có tên là Phật Thệ, Phật Thành hay Chà Bàn, Đồ Bàn, nay là thị xã An
Nhơn). Toàn bộ vương tộc tại Indrapura (Đồng Dương) được đưa về Sri Bini (Qui
Nhơn) định cư, vì nơi này ít bị uy hiếp hơn khi có chiến tranh. Dưới thời
Yanpuku Vijaya (999-1010), đạo Hồi cùng với đạo Bà La Môn phát triển mạnh mẽ.
Tân vương tổ chức lại quân đội và cử nhiều phái đoàn sang Trung Hoa thông sứ
với hy vọng được nhà Tống bảo vệ khi bị Đại Cồ Việt tấn công.
Năm 1005, hay
tin Lê Đại Hành mất, Yanpuku Vijaya mang quân tấn công Đại Cồ Việt, lúc đó do
Lê Long Đĩnh (1005-1009), một hôn quân, cai trị. Hai bên giữ thế giằng co, bất
phân thắng bại trong 40 năm (1005-1044). Yanpuku Vijaya mất năm 1010, Sri
Harivarmadeva lên thay, hiệu Harivarman III. Tân vương cai trị đến năm 1018 thì
mất, Chế-mai-pa Mộ-tài (Chemeipai Moti) lên thay, hiệu Paramesvara varman
II.
Trong lãnh thổ
người Kinh, Lý Công Uẩn lật đổ nhà Lê, thành lập nhà Lý (năm 1010), hiệu Thái
Tổ, đổi quốc hiệu là Đại Việt. E ngại uy dũng và mến mộ đức độ của Lý Thái Tổ,
Champa và Chân Lạp cử người sang triều cống. Giao hảo giữa Champa và Đại Việt
rất là tốt đẹp, nhưng chỉ kéo dài được mười năm. Năm 1020, do mất mùa và đói
kém, quân Champa tiến chiếm hai châu Bố Chánh và Ma Linh (Quảng Bình). Năm
1021, thái tử Phật Mã, trưởng nam của Lý Thái Tổ, chiếm lại hai châu bị mất.
Năm 1026, quân của thái tử Phật Mã chiếm luôn châu Điền (Thừa Thiên). Lý Thái
Tổ mất năm 1028, Phật Mã lên thay, xưng hiệu Thái Tôn. Vua Champa không những
không chịu thông sứ với Đại Việt mà còn xua quân đánh phá các làng ven biển tại
châu Điền, châu Ái (Thanh Hóa) và châu Hoan (Nghệ An). Sau khi củng cố lại lực
lượng tại châu Hoan, Lý Thái Tôn sát nhập ba châu Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh
vào lãnh thổ Đại Việt và cử võ quan vào trấn thủ.
Năm 1030,
Paramesvara varman II qua đời, triều đình Viyaja rối loạn. Một vương tôn tên
Chế Li (Cheli) tiếm ngôi, xưng hiệu Vikrantavarman IV. Nội chiến liền xảy ra,
rất là khốc liệt. Con cháu Paramesvara varman II nổi lên chống lại. Năm 1038,
con Vikrantavarman IV là hoàng tử Địa Bà Thích cùng với một số thủ hạ trong
binh đội địa phận Bố Chánh (hơn 100 người do các tướng Bố Cả, Lan Đồ Thích, Lạc
Thuẩn, La Kế và A Thát Thích chỉ huy) nổi lên giành ngôi với vua cha nhưng
không thành, phải chạy vào Đại Việt xin tị nạn. Tại đây Địa Bà Thích hai lần
xin nhà Lý (1039 và 1040) đưa về làm vua, nhưng không được chấp nhận.
Trước đe dọa
của chính con mình, năm 1041 Vikranta varman IV - sau khi liên minh được với
vương quốc Angkor là vua Suraya varman I - yêu cầu nhà Lý giao hoàng tử Địa Bà
Thích phản nghịch về xử tội, nhưng không thành. Quân Chăm liền tấn công Đại
Việt, Vikrantavarman IV bị giết ngay trong trận đầu, con là thái tử Sạ Đẩu (Po
Tik) lên thay, hiệu Jaya Sinhavarman II. Tân vương sai sứ sang Trung Hoa xin
vua Tống tấn phong đồng thời cũng xin được bảo vệ, nhờ đó được yên bình vài
năm. Năm 1043, quân Champa dùng thuyền đổ bộ vào một số làng xã ven biển đánh
phá và chỉ rút lui khi quân Lý tiến tới.
Năm 1044, viện
cớ Champa không chịu triều cống từ hơn 16 năm qua và còn quấy rối lãnh thổ, Lý
Thái Tôn dẫn đầu một đại binh gồm 10.000 thủy quân xuống đánh. Jaya Sinhavarman
II vừa tổ chức phản công vừa cho người sang Trung Hoa cầu cứu. Quân Champa chận
quân Đại Việt tại phía nam sông Thu Bồn (Quảng Nam) nhưng bị thua to: gần
30.000 binh sĩ và hơn 60 voi trận phơi thây trên chiến trường, hơn 5.000 quân
Champa và 30 voi trận bị bắt sống. Jaya Sinhavarman II cũng bị tử thương trong
trận này, tướng Quách Gia Gi (Isvaras) liền cắt lấy đầu mang sang trại vua Lý
làm lễ vật xin hàng. Lý Thái Tôn thấy quân Champa bị giết quá nhiều liền ra
lệnh không cho binh sĩ giết người vô cớ. Quân Đại Việt tiếp tục tiến xuống phía
Nam, chiếm đế đô Phật Thệ (Vijaya hay Đồ Bàn), bắt vương phi Mỹ Ê cùng nhiều
cung nữ, nghệ nhân mang về đất Bắc.
Trên đường về
nước, khi đến sông Lý Nhân (sông Hương), Lý Thái Tôn cho người mời Mỵ Ê sang
chầu nhưng bà nhảy xuống sông tự tử để giữ tiết với chồng. Quý mến sự thủy
chung này, vương phi Mỵ Ê được Lý Thái Tôn phong tước Hiệp chánh hộ thiên và
cho lập đền thờ. Những tù binh Champa sau đó được cấp ruộng đất và cho định cư
tại Hưng Hóa (Nghệ An) trong hai xã Vĩnh Khương và Đăng Châu. Nông dân Đại Việt
cũng di cư vào các vùng đất mới tại Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh lập nghiệp. Trong
số tù binh Champa có một thiền sư Phật giáo tên Thảo Đường. Tăng sư Thảo Đường
lập ra phái Thiền tông thứ ba tại Đại Việt. Nhiều chùa Phật giáo Tiểu Thừa tại
miền Bắc Việt Nam (chùa Vạn Phúc ở Bắc Ninh, chùa Thiên Phúc ở Sơn Tây) do nhân
công gốc Chăm xây dựng. Thợ Chăm dạy cho thợ Đại Việt cách đúc tượng Phật và
xây cất chùa kiểu Ấn Độ. Nghệ nhân Champa dạy cho các cung nữ triều đình nhà Lý
các điệu nhạc Champa (các điệu nam ai, nam oán...).
8.Triều
vương thứ tám (1044-1074) :
Quách Gia Gi là một vương tôn thuộc đẳng cấp Ksatriya (chiến sĩ). Sau khi
đầu hàng nhà Lý, ông được triều thần tôn lên làm vua năm1044, hiệu Jaya
Paramesvara varman I. Trước một đất nước bị kiệt quệ vì chiến tranh, Quách Gia
Gi một mặt phải giao hảo tốt với Trung Hoa và Đại Việt để được yên thân, mặt
khác tập trung sức lực còn lại bình định loạn lạc ở phía nam. Trước kia, theo thỏa
hiệp giữa Vikranta varman IV và Suraya varman I (vương quốc Angkor), quân Khmer
vào giúp Champa dựng trại tại Panduranga, khi Vikranta varman IV mất quân Khmer
không những không chịu rút quân về mà còn muốn chiếm giữ luôn lãnh thổ
Panduranga.
Năm 1050, viện
cớ một tiểu vương tại Panduranga không tuân phục triều đình trung ương, Jaya
Paramesvara varman I cùng cháu là hoàng thân Yavaraja Mahasenapati mang quân
chinh phạt và cũng nhân dịp đánh đuổi quân Khmer ra khỏi lãnh thổ. Tiểu vương
Panduranga thua trận, một số binh sĩ và dân chúng đất Pănrăn (Phan Rang) phải
trốn trong các hầm đất, hang động hoặc chạy lên núi trốn, một số khác chạy theo
quân Khmer về bên kia biên giới lánh nạn. Toàn bộ tài sản, súc vật của dân
chúng Pănrăn bị tịch thu mang về Vijaya làm chiến lợi phẩm, những tù binh bị
mang về làm nô lệ và hạ xuống làm đẳng cấp Sudra. Tiểu quốc Panduranga bị đặt
dưới quyền cai trị trực tiếp của triều đình trung ương Vijaya. Trong giai đoạn
này, người Champa chạy loạn lên Tây Nguyên (đặc biệt là cao nguyên Đắc Lắc) lánh
nạn một số đã ở lại định cư vĩnh viễn, hòa trộn với những nhóm dân cư có trước
để thành người Rhadé.
Dẹp xong loạn
phía Nam, Jaya Paramesvara varman I xây dựng lại đất nước. Nhà vua cho dựng lại
các tượng đài bằng đá hoa cương trong tháp Po Nagar, cấp cho những vị tu sĩ giữ
đền 50 nô lệ Chăm, Khmer, Hoa, Miến, Xiêm, 15 cân vàng, 15 cân bạc, và nhiều
vật dụng quí giá khác. Nhà vua mất năm 1060, con trai trưởng lên kế vị hiệu
Bhadra varman III, trị vì được một năm (1060-1061) thì mất. Năm 1061, em trai
của Bhadra varman III là Chế Củ lên thay, hiệu Rudra varman III. Rudra varman
III là một người tinh khôn, một mặt giao hảo bình thường nhà Lý để tránh bị
nghi ngờ, mặt khác chuẩn bị quân sĩ tiến đánh Đại Việt. Năm 1068, Rudra varman
III mang quân đánh vào các làng của người Việt tại Ma Linh và Địa Lý, quân Lý
thua phải rút lên phía Bắc.
Năm 1069, Lý
Thánh Tôn (lên ngôi năm 1054) cùng Lý Thường Kiệt mang 30.000 quân và 200 chiến
thuyền tiến chiếm Sri Bini (Qui Nhơn), rồi đế đô Vijaya (Bình Định), giết tướng
giữ thành là Bố Bì Đà La trên sông Tu Mao (nay là Hà Giao). Rudra varman III
băng rừng chạy sang Chân Lạp tị nạn. Tại đây hoàng gia Chăm bị người Khmer bạc
đãi, Rudravarman III về lại Vijaya chịu cho quân Đại Việt bắt sống, cùng với
3.000 quân và gia quyến, hơn là qui thuận Angkor. Tuy vậy thành Vijaya vẫn bị
quân Đại Việt tràn vào đốt phá trước khi rút về nước. Dân số Vijaya lúc đó được
ghi nhận là hơn 2.560 gia đình. Để chuộc lại tự do, Rudravarman III xin dâng ba
tỉnh phía bắc Champa gồm Bố Chánh (hay Bố Chính), Địa Lý và Ma Linh (Quảng Bình
và bắc Quảng Trị ngày nay). Lãnh địa Indrapura bị xóa tên và trở thành ba tỉnh
của Đại Việt. Nhà Lý đổi tên Ma Linh thành châu Minh Linh, Địa Lý thành châu
Lâm Bình, châu Bố Chánh được giữ nguyên tên.
Thật ra ba châu
Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh đã thuộc về Đại Việt từ lâu, từ đời nhà Tiền Lê
(năm 982), cách đó gần 80 năm. Do sức ép về dân số, nhiều gia đình nông dân
nghèo khó không có đất canh tác trên đồng bằng sông Hồng và sông Cả đã tự động
di cư đến đây rồi khai phá đất hoang và canh tác hoa mầu. Trong cuộc sống cộng
cư, với thời gian, có thể những nhóm di dân cư này đã hòa trộn với các nhóm dân
cư gốc Kinh có mặt từ trước, khi vương quốc Lâm Ấp được thành hình, hoặc với
người Chăm địa phương từ nhiều đời để tạo thành các nhóm "dân miền
Trung". Yếu tố Chăm do đó không còn mạnh mẽ, nếu không muốn nói là mất hẳn
ảnh hưởng trên vùng đất này, nhường chỗ cho yếu tố Kinh, đầy sức sống và đông
đảo hơn. Nói một cách khác, sự dâng đất này là một hình thức công nhận quyền sở
hữu chính thức của nhà Lý trên một vùng đất đã thoát khỏi sự kiểm soát của
chính quyền trung ương Champa từ lâu. Sự dâng đất này còn ngụ ý là Champa sẽ
không mang quân sang quấy phá nữa, vì thần linh bảo vệ hoàng tộc và đất đai
không còn nữa. Đất ở ba châu này thật ra có phì nhiêu hơn ở vùng Thanh Hóa (tức
châu Điền), nhưng không phì nhiêu bằng đất ở Amavarati (Quảng Nam). Sự tranh chấp
giữa Đại Việt và Champa về sau trên phần lãnh thổ này vì tự ái dân tộc nhiều
hơn vì sự mầu mỡ của đất đai. Sau khi nhượng hẳn cho Đại Việt ba châu phía Bắc,
Rudra varman III mất uy tín trước các tiểu vương. Champa bị loạn sứ quân, không
ai còn nghe ai nữa. Hơn mười tiểu vương tự tuyên bố độc lập, kẻ mạnh mang quân
đi đánh tiểu vương quốc yếu để mở rộng lãnh thổ hoặc gây thanh thế. Các tiểu
vương ở phía Nam, liên minh với đế quốc Angkor, biến Panduranga thành trung tâm
chống lại vương triều và các tiểu vương phía Bắc. Năm 1074, buồn phiền trước
cảnh đất nước loạn lạc và bị các tiểu vương phía Nam xua đuổi, Rudravarman III
(Chế Củ) dẫn gia đình sang Đại Việt xin tị nạn và tan biến luôn trong xã hội
người Kinh.
9.Triều
vương thứ chín (1074-1139) :
Tại Panduranga,
một hoàng thân xuất thân từ Panduranga tên Thăn (còn gọi là Yan Visnumurti,
Madhavamurti hay Devatamurti, tiếng Việt là Thân), cùng em là hoàng tử Pãn (tên
Việt là Phan), đã lần lượt chinh phục các tiểu vương sứ quân, thống nhất lại
đất nước. Năm 1074, Thăn được quần thần tôn lên làm vua, hiệu Hari varman IV,
mở đầu triều vương thứ chín.
Thăn là tên một
hoàng tộc thuộc bộ tộc Cau mà dân chúng Panduranga cho là dòng vương tôn chân
truyền của vương quốc Champa. Chính vì thế Harivarman IV rất tự hào về nguồn gốc
xuất thân của mình, vì luôn tự nhận là sự kết hợp của hai bộ tộc lớn nhất của
Champa: cha là Pralaysvara Dharmaraja, dòng Narikelavansa thuộc đẳng cấp
Ksatriya, bộ tộc Dừa ở Amaravati ; mẹ thuộc dòng Kramukavansa, đẳng cấp
Brahman, bộ tộc Cau ở Panduranga. Sở dĩ có sự giải thích dài dòng về nguồn gốc
xuất thân này - nhất là nguồn gốc xuất thân của mẹ, dòng Brahman chính thống -
vì Harivarman IV biết chắc rằng trong các sứ quân không ai hội đủ điều kiện về
nguồn gốc xuất thân để có thể được tôn lên làm vua trên toàn cõi Champa.
Việc làm đầu
tiên của Hari varman IV là phục hồi lại các đền đài đã bị tàn phá bởi quân Đại
Việt và cuộc nội chiến. Không đầy một năm sau, Champa trở nên hùng mạnh trở
lại. Harivarman IV mang quân sang đánh Đại Việt, giành lại phần lãnh thổ mà
Rudra varman III nhượng trước đó.
Năm 1075, viện
cớ phục hồi ngôi vua cho con cháu Rudravarman III (Chế Củ), nhà Lý sai Lý
Thường Kiệt mang quân chiếm lại ba châu vừa bị mất. Trước sự chống trả mãnh
liệt của quân Chiêm, Lý Thường Kiệt phải lui binh nhưng cho người vẽ lại địa
thế rồi đưa một số nông dân gan dạ (thật ra là những binh lính trá hình) vào
định cư. Hay tin quân Lý bị Champa đánh bại, vua Tống sai Vương An Thạch mang
10.000 quân tiến qua biên giới tấn công Đại Việt. Lý Thường Kiệt lui về bảo vệ
lãnh thổ phía bắc. Ba châu vừa chiếm lại lọt vào tay Champa.
Năm 1076, vua
Tống sai Quách Quì kết hợp với Champa và Angkor, mang 7.000 quân tiến công Đại
Việt nhưng bị Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đánh bại. Thừa thắng, Lý Thường Kiệt
tiến xuống chiếm đóng đế đô Phật Thành, Harivarman IV phải cùng con cái và một
số thân tín chạy lên núi trốn ; tại đây phái đoàn được các sắc dân Thượng che
chỡ.
Quân Lý chỉ
chịu rút khỏi Phật Thành khi Harivarman IV tuyên bố chấp nhận triều cống nhà Lý
trở lại. Hay tin này, hoàng thân Sri Nandana varmadeva (người Khmer) - mang
quân vào miền Nam Champa theo lời mời của Quách Quì để chống lại nhà Lý - chiếm
luôn Panduranga. Vua Hari varman IV phải yêu cầu nhà Lý giúp đỡ. Lúc này mặc dù
đã tuổi già sức yếu, Lý Thường Kiệt vẫn phải thân chinh đi đánh dẹp. Quân Khmer
thua to bỏ chạy về nước, Hari varman IV truy đuổi và tiêu diệt hết tại
Somesvara (Biên Hòa ngày nay). Nhà vua sai em là hoàng tử Pãn (tiếng Việt là
Phan) Champa Sambhupura (Sambor) trên sông Mékong, bắt được nhiều tù binh cùng
vàng bạc và của cải mang về nước.
Dẹp xong loạn
phương Nam, Harivarman IV tập trung phục hồi đất nước. Mặc dù vẫn duy trì triều
đình tại Vijaya, nhà vua sửa sang lại các nơi thờ phượng khác trên toàn quốc và
cho xây dựng lại các thánh địa tôn giáo tại Indrapura (Đồng Dương) và Sinhapura
(Mỹ Sơn). Hoàng tử Pãn đích thân đôn đốc việc trùng tu các đền thờ tại
Sinhapura (Mỹ Sơn). Dưới triều vua Harivarman IV, Champa trù phú trở lại, đền
đài cung điện tìm lại những nét huy hoàng tráng lệ ngày xưa.
Năm 1080, Hari varman
IV nhường ngôi cho con là thái tử Văk Pulyan Rajadvara, 9 tuổi. Tân vương lên
ngôi năm 1081, hiệu Jaya Indra varman II (Chế Ma Na). Chú là hoàng tử Pãn thế
quyền giám quốc. Nhưng không biết vì nguyên do nào mà cả triều thần và thái tử
Văk đồng tôn Pãn lên làm vua, hiệu Sri Paramabo dhisatva (Si-bà Ra-ma Bồ-đề
Sát-bà). Paramabo dhisatva giao hảo tốt với Đại Việt, mục đích chính của nhà
vua là duy trì sự thống nhất của Champa, vì lúc đó một tiểu vương Panduranga
tên Rudra varman ly khai, không công nhận vương quyền phương Bắc. Thật ra sự ly
khai này đã xảy ra từ 16 năm trước, nhưng triều đình Vijaya vì bận lo giải
quyết những vấn đề khác cấp bách hơn nên chưa ra tay. Tiểu vương Rudravarman bị
đánh bại, Panduranga bị dưới quyền cai trị trực tiếp của Phật Thành
(Vijaya).
Năm 1086, nội
bộ Champa xảy ra nội chiến. Thái tử Văk (Jaya Indra varman II) được triều đình
thúc đẩy muốn cầm quyền trở lại. Ước muốn này gặp sự phản đối của vua Paramabo dhisatva
(hoàng tử Pãn) - người muốn đưa trưởng nam của mình là hoàng tử Pulyan Sri
Yavaraja lên ngôi - đã tìm mọi cách loại trừ thế lực thái tử Văk nhưng không
được. Cuối cùng Paramabo dhisatva mất tích, phe của ông bị phe của thái tử Văk
giết hết. Jaya Indra varman II lên ngôi và tiếp tục triều cống Đại Việt. Năm
1092, Jaya Indra varman II nhờ nhà Tống giúp đòi lại vùng đất đã mất nhưng
không kết quả.
Năm 1103, một
người Việt ở phủ Diên Châu (Nghệ An) tên Lý Giác nổi lên làm phản. Lý Thường
Kiệt vào đánh, Lý Giác thua chạy sang Phật Thành (Vijaya) thuyết phục vua Jaya
Indravarman II hưng binh chiếm lại vùng đất đã mất. Lý Thường Kiệt một lần nữa
phải thân chinh đi dẹp lọan, Jaya Indra varman II bị thua phải trả lại ba châu
đã chiếm và chịu triều cống trở lại năm 1104.
Nhà Lý liền
phân chia lại các châu vừa lấy lại như sau : châu Bố Chánh gồm huyện Nam Bố
Chánh (Bố Trạch ngày nay) và huyện Bắc Bố Chánh (Quảng Trạch và Tuyên Hóa ngày
nay), châu Lâm Bình (Địa Lý cũ) gồm huyện Phong Lộc (Quảng Ninh ngày nay) và
huyện Phong Đăng (sau gọi là Phong Phú, tức huyện Lệ Thủy ngày nay). Hai huyện
Phong Lộc và Phong Phú là vựa lúa lớn nhất của đất Indrapura. Châu Minh Linh
(Ma Linh cũ) được chia thành hai huyện Vĩnh Linh và Gio Linh.
Năm 1113, cháu
Jaya Indravarman II là Harivarman V lên ngôi, tân vương giữ nguyên chính sách
cai trị của chú, quan hệ giữa Champa và Đại Việt rất là thân thiết. Harivarman
V trị vì đến năm 1129 thì mất không người kế vị, Champa lâm cảnh loạn lạc.
Vương triều Panduranga không chịu sự cai trị của Vijaya, liên kết với Chân Lạp đánh
lại. Hai miền Nam Bắc đánh phá lẫn nhau trong suốt 10 năm (1129-1139).
10.Triều
vương thứ mười (1139-1145) :
Năm 1129 Hari varman
V mất, hoàng triều Champa tôn người con nuôi của nhà vua tên Po Sulika lên
thay, hiệu Jaya Indra varman III. Vì không có quan hệ gia tộc trực tiếp với
dòng vua cũ, Jaya Indra varman III phải tự nhận có quan hệ xa xôi với các triều
vua trước để được dân chúng phục tùng. Theo các bia ký đọc được tại Đồng Dương
và Po Nagar, Jaya Indra varman III sinh năm 1106, được nhận vào hoàng tộc năm
1129 tước Devaraja, được phong vương (Yuvaraja) năm 1133. Jaya Indra varman III
xây thêm nhiều tượng thần Siva, Visnu và Linga trong những năm 1139, 1142 và
1143 tại Indrapura và Kauthara để xác nhận ông là truyền nhân của đẳng cấp
Brahman.
Cùng thời gian
này, năm 1112, tại Chân Lạp vua Surya varman II lên ngôi. Năm sau tân vương xua
quân đánh chiếm Champa. Tham vọng của nhà vua được thời cuộc hỗ trợ vì bên
Trung Hoa nhà Tống đang bận chống quân Kim (Mãn Châu) ; vua Lý Thần Tông chết
sớm, Lý Anh Tôn còn quá nhỏ, các tướng lãnh tranh quyền, Đại Việt bị suy kém.
Năm 1128, được champa hỗ trợ, Suryavarman II dẫn 20.000 quân, đi trên 700 chiến
thuyền, đổ bộ vào Thanh Hóa đánh phá và cũng là một cách răn đe Đại Việt không
nên hỗ trợ Bắc Champa, bị Angkor liên tục đánh phá từ 1030. Không chịu đựng nổi
sự hà hiếp của người Khmer, đời sống dân chúng Champa rất là khổ sở. Dưới sự
cai trị hà khắc của người Khmer, một số vương tôn Champa chạy vào Đại Việt xin
tị nạn (Cụ Ông và 30 gia nhân, Kim Đình A Phú và 4 gia nhân, Tư Bồ Đà La cùng
30 gia nhân, Êng Ma và Êng Câu…). Trong những năm 1131 và 1136, quân Nam Champa
và Chân Lạp hợp nhau đánh phá Nghệ An và bờ biển Thanh Hóa.
Năm 1132, viện
cớ Jaya Indravarman III không chịu hợp tác tấn công Đại Việt, Suryavarman II
tiến quân lần nữa sang đất Champa: đế đô Vijaya bị chiếm năm 1145. Jaya
Indravarman III mất tích trên chiến trường (được dân chúng thờ dưới tên
Rudraloka), những người chống lại quân Khmer đều bị xử trảm. Suryavarman II tự
xưng là hoàng đế của cả Chân Lạp lẫn Champa. Kể từ 1145 đến 1149, lãnh thổ đế
quốc Khmer được nới rộng lên phía Bắc, từ Champassak (Nam Lào) đến đèo Hải Vân
(Bắc Champa), người Khmer trực tiếp điều khiển binh lực Champa.
11.Triều
vương thứ mười một (1145-1318) :
Năm 1145 hoàng
thân Parabrahman được triều thần đưa lên kế vị Jaya Indravarman III, hiệu
Rudravarman IV. Vừa lên ngôi, Rudravarman IV cùng con trai là Ratnabhumivijaya
(hoàng tử Sivanandana) bị quân Khmer truy lùng ráo riết phải bỏ Vijaya chạy vào
Đại Việt lánh nạn. Thời gian sau, Rudravarman IV băng rừng về lại Panduranga
lập chiến khu trên cao nguyên, nhiều bộ lạc Thượng gia nhập quân kháng chiến
rất đông. Trên đường chạy loạn, Rudra varman IV lâm bệnh mất năm 1147 (dân
chúng thờ dưới tên Brahmaloka hay Parabrahmaloka), con là thái tử Ratna bhumi vijaya
lên thay, hiệu Jaya Hari varman I (Chế Bì Ri Bút).
Trên cao
nguyên, Jaya Harivarman I được đông đảo người Thượng và người Khmer (có thể là
người Thượng thuộc hệ ngôn ngữ Môn Khmer) ủng hộ. Nhà vua tổ chức kháng chiến
chiếm lại Panduranga, nhưng lãnh thổ Bắc Champa (Vijaya) vẫn còn nằm trong tay
người Khmer, do em rể vua Jaya Indravarman III là hoàng tử Hariveda (đẳng cấp
Ksatriya) cai trị. Vương quốc Champa bị chia đôi.
Năm 1148, vua
Khmer (Jaya Indra varman III) cử tể tướng Sankara cùng tướng Sipakhya tấn công
Panduranga, nhưng bị quân Champa đánh bại tại đồng bằng Kayev, tỉnh Virapura
(tiếng Khmer là Rajapura, tiếng Việt là Phan Rang). Thừa thắng xông lên, năm
1149, Jaya Harivarman I dẫn đầu đoàn quân Champa, Thượng chiếm thành Vijaya,
giết Hariveda trên sông Yami (sông Hà Giao, Bình Định), thống nhất lại đất
nước. Kinh đô đặt tại Vijaya.
Do phân chia
quyền lợi không đồng đều, người Rhadé, Bahnar và nhiều bộ lạc Thượng khác tôn
Vansaraja (Ưng Minh Diệp), anh rể Jaya Harivarman I, lãnh đạo phong trào kháng
chiến chống lại Jaya Harivarman I. Năm 1150, sau khi xưng vương tại
Madhyamagrama (ngày nay là An Khê, cạnh núi Yang Mung), Vansaraja dẫn đại quân
xuống đồng bằng tấn công người Chăm, nhưng bị đánh bại tại làng Slay. Jaya
Harivarman I tiến lên cao nguyên càn quét quân nổi loạn, Vansaraja phải chạy
vào Đại Việt xin nhà Lý giúp đỡ đưa về làm vua. Lý Anh Tôn sai thương chế
Nguyễn Mông mang 5.000 binh sĩ từ Thanh Hóa và Nghệ An vào đánh Champa. Chiến
trận đã diễn ra rất là khốc liệt tại Dalva (Đông Hà) và Lavan (La Vang), cả
Nguyễn Mông lẫn Vansaraja đều bị tử trận. Trong những năm sau (1151-1155), quân
Champa thường xuyên vào lãnh thổ Đại Việt (Nghệ An) cướp phá, vua Lý Anh Tôn
định cất quân đi chinh phạt nhưng Jaya Harivarman I chịu dâng nhiều phẩm vật
quí giá nên thôi, thực sự nhà Lý cũng e ngại sức mạnh quân sự của Champa.
Vì dồn hết mọi
năng lực vào chiến tranh đánh dẹp nội loạn và ngoại xâm, đời sống dân chúng
Champa trở nên cơ cực, nhiều lãnh chúa địa phương nổi lên chống lại triều đình
trung ương. Năm 1151, Jaya Harivarman I phải hao tổn nhiều công sức lắm mới
khuất phục được những cuộc nổi loạn tại Amavarati. Vừa dẹp loạn phương Bắc,
Jaya Harivarman I lại phải đương đầu với những cuộc nổi loạn tại Panduranga, do
người Khmer đỡ đầu. Phải mất năm năm (1151-1155), nhà vua mới dẹp xong được
loạn và sau 1160 Champa tìm được lại sự hùng mạnh của quá khứ và giao hảo tốt
với các lân bang.
Năm 1162, Jaya
Harivarman I băng hà truyền ngôi cho con là hoàng tử Sakan Vijaya, hiệu Jaya
Harivarman II. Năm 1167 Sakan Vijaya bị hoàng thân Vatuv Gramapuravijaya soán
ngôi, hiệu Jaya Indravarman IV.
Trong những năm
1164-1166, quân Champa thường xuyên tổ chức đánh cướp các tàu buôn Ả Rập qua
lại trên Biển Đông và tiến lên đánh phá các làng xã của Đại Việt tại châu Lâm
Bình và Minh Linh. Năm 1167, Lý Anh Tôn sai Tô Hiến Thành mang quân đánh
Champa. Jaya Indravarman IV vội cử người sang cống nạp, Tô Hiến Thành lui quân
về nước. Quà cáp thường là chiến lợi phẩm cướp từ các tàu buôn Ả Rập. Chính vì
những hành vi cướp bóc tàu thuyền này mà nhà Tống từ chối không phong vương cho
Jaya Indravarman IV, mặc dầu đã cử nhiều phái đoàn sang Trung Hoa triều
cống.
Jaya
Indravarman IV (1151-1205), còn gọi là Po Klong Girai, Po Klong Garai hay Po
Klău Girai, là người có công xây đập Chaklin (Nha Trinh) và hai mương dẫn nước
(mương Cái và mương Đực) tại Phan Rang để canh tác nông nghiệp. Theo truyền
thuyết, Po Klong Garai - còn gọi là Vua Lác, con của nữ thần Po Sah Ino - lúc
mới sinh ra đã mắc bệnh cùi, may nhờ có rắn naga liếm nên lành bệnh. Tuy mang
bệnh cùi từ lúc còn trẻ nhưng nhà vua đã tỏ ra đắc lực trong việc chiến chinh.
Khi băng hà, nhà vua dân được chúng thờ trong tháp Po Klong Garai (tháp Chàm
Phan Rang, phường Lưu Vinh, thị xã Tháp Chàm).
Jaya Indravarman
IV quyết chí phục thù đế quốc Angkor về việc xâm chiếm và đô hộ Champa. Quân
lực Champa dưới thời Jaya Indravarman IV rất giỏi về tượng binh và thủy chiến.
Năm 1170, sau khi điều đình với Đại Việt giữ thế trung lập (bằng phẩm vật triều
cống), Jaya Indravarman IV mang đoàn tượng binh tấn công Chân Lạp, lúc đó do
vua Dharanindravarman II cai trị. Cuộc chiến kéo dài một năm, bất phân thắng
bại (quân Khmer cũng dùng tượng binh đối chọi), sau cùng quân Champa phải rút
về nước vì hết lương thực.
Năm 1171, một
quan nhân gốc Hoa (không rõ tên) - quê ở Ki Yang Kiun, Quí Châu, thuộc đảo Hải
Nàm, bị chìm tàu trôi giạt vào bờ biển Champa - được dân chúng dẫn đến trình
diện Jaya Indravarman IV. Người này chỉ cho vua Champa cách cưỡi ngựa xung trận
thay vì dùng voi như trước, điều này làm nhà vua rất thích thú vì hiệu quả thần
tốc và gọn nhẹ của nó. Sau khi nắm vững được thuật cỡi ngựa, Jaya Indravarman
IV cử một đoàn người sang Cửu Châu, đảo Hải Nàm, mua hết ngựa chiến nhưng bị
vua Tống không cho bán (vì những hành vi hải tặc trước đó). Đoàn thương buôn Champa
nổi giận bắt người, đốt những trại nuôi ngựa không chịu bán. Dân Hải Nàm quá lo
sợ phải bán cho họ một số ngựa mới được yên, nhưng không đủ để thành lập một
đội kỵ binh. Năm 1172, Jaya Indravarman IV cử một đoàn người khác sang Trung
Hoa triều cống, trả về những thường dân bị bắt và yêu cầu xin mua ngựa,vua Tống
vẫn từ chối.
Không mua được
ngựa, Jaya Indravarman IV tấn công Chân Lạp bằng đường thủy (năm 1176). Nhà vua
cho đóng thêm nhiều tàu chiến, tập dượt thủy binh. Năm 1177, Jaya Indravarman
IV đi thuyền từ cửa sông Cửu Long vào chiếm Vrah Nagar (Prah Nokor, ngày nay là
Sài Gòn). Quân Champa tịch thu nhiều chiến lợi phẩm và bắt theo nhiều tù binh
Khmer về nước. Những tù binh này lúc đầu có bị bạc đãi, nhưng về sau được đối
xử tử tế để trở thành dân Champa và hội nhập hoàn toàn vào xã hội dân
Champa.
Trong số tù
binh này có một vương tôn Khmer, sau này là Jayavarman VII. Lúc còn ở Champa,
Jayavarman VII học được cách tổ chức xã hội, cách huấn luyện binh sĩ thủy bộ, còn
kết thân được với nhiều hoàng thân của xứ này. Ông được thả về nước năm 1186 để
kế nghiệp anh là vua Yasovarman II, bị soán ngôi.
Về lại Chân
Lạp, Jayavarman VII kết nghĩa với một vương tôn Champa tên Sri Vidyanandana,
quê ở Tumpraukvijaya (một làng ở Bình Định), đến Chân Lạp lập nghiệp từ 1182.
Sau khi dẹp được loạn ở Malyan (hay Mou Leang, một làng ở vùng phía Đông Chân
Lạp), hoàng thân Sri Vidyanandana được Jayavarman VII phong một tước hoàng tộc
Khmer là Yuvaraja. Năm 1190, Jayavarman VII sai Vidyanandana đi đánh Champa,
ông chiếm được Vijaya, bắt sống Jaya Indra varman IV mang về Chân Lạp. Hoàng tử
In (anh em cột chèo với Jaya varman VII) được phong làm tiểu vương xứ Nagara
Vijaya (Bắc Champa), hiệu Surya Jaya varman (hay Surya Jaya varmadeva), hoàng
thân Vidyanandana được phong làm tiểu vương xứ Rajapura (Nam Champa), hiệu
Surya varman (còn gọi là Surya varmadeva hay Bố Trì), cả hai đều đạt dưới sự
lãnh đạo của Jaya varman VII. Vương quốc Champa trở thành một thuộc địa của
Chân Lạp. Panduranga và Vijaya là hai tỉnh của đế quốc Angkor. Người Thượng
trên Tây Nguyên không công nhận vương quyền mới này đã cùng một số vương tôn
Champa khác tổ chức đánh phá Amavarati, Vijaya và Panduranga.
Năm 1191 tại
Vijaya, Surya Jayavarman (hoàng tử In) bị Rasupati, một hoàng thân Champa, đánh
bại phải chạy về lại Chân Lạp. Rasupati tự xưng là vua xứ Vijaya, hiệu Jaya
Indravarman V. Không nhìn nhận vương quyền mới này, Jayavarman VII cho Jaya
Indravarman IV (cựu vương Champa và cũng là thân phụ của hoàng tử In) về Bắc
Champa chiếm lại ngôi báu. Jaya Indravarman IV được Suryavarman (hoàng thân Sri
Vidyananda) tiếp sức mới chiếm được Vijaya, Rasupati (Jaya Indravarman V) bị xử
trảm. Thay vì giao thành lại cho vua Champa cũ, Suryavarman chiếm luôn Vijaya ;
Jaya Indravarman IV liền kêu gọi dân chúng tại Amavarati và các làng Ulik,
Vyar, Jriy, Traik chống lại. Năm 1192, Jaya Indravarman IV bị tử trận tại
Traik. Suryavarman thống nhất lại đất nước, lên ngôi vua, tìm cách tách khỏi
ảnh hưởng của đế quốc Angkor.
Hay tin hoàng
thân Suryavarman làm phản, Jayavarman VII cử đại quân, trong số này có cả người
Thượng (do tướng Jai Ramya cầm đầu), sang đánh Champa. Cuộc chiến kéo dài từ
1193 đến 1194, đại quân Khmer bị đánh bại. Thay vì theo quân Khmer về nước, một
người Djarai tên Sri Agara chiếm một vùng đất lớn từ Amavarati đến Pidhyan (Phú
Giang, bắc Phú Yên) rồi tự xưng vương năm 1193, hiệu Patau Ajna Po Ku.
Tuy đẩy lui
được quân Khmer, Suryavarman vẫn lo sợ. Năm 1194, ông dời cư lên Amaravati
(Quảng Nam) tránh nạn và giao hảo tốt với Đại Việt năm 1198, bằng cách triều
cống hằng năm, và được vua Lý Cao Tông (Long Cán) phong vương năm 1199. Đất
nước được thái bình trong vài năm thì Suryavarman bị chú là Yuvaraja on
Dhanapati Grama (Bố Do) soán ngôi năm 1203. Dhanapati Grama đưa quân Khmer vào
chiếm Amaravati, Suryavarman dẫn một hải đội hơn 200 chiến thuyền chạy vào cửa
Cửu La (Nghệ An) xin tị nạn. Tại đây, vị hoàng thân Champa (người Việt gọi là
Bố Trì) bị Dĩ Mông và Phạm Giêng, hai quan trấn thủ Nghệ An nghi ngờ
Suryavarman rất buồn lòng, dùng mưu đốt thuyền của Phạm Giêng và giăng buồm ra
khơi mất tích.
Dhanapati được
lệnh vua Khmer đánh dẹp các cuộc nổi loạn tại Champa, đặc biệt là trên cao
nguyên. Patau Ajna Po Ku bị bắt sống đem về Chân Lạp trị tội. Dhanapati được
phong toàn quyền cai trị xứ Champa. Champa trở thành một tỉnh của đế quốc
Angkor lần thứ hai. Dhanapati được con trưởng của Jaya Harivarman II
(1162-1167), sinh sống tại Chân Lạp, tên Ansaraja Turaivijaya phụ lực cai trị
Champa. Turaivijaya cai quản đất Amavarati, tổ chức nhiều cuộc tấn công vào
lãnh thổ Đại Việt (Nghệ An) trong những năm 1207, 1216 và 1218 ; tất cả đều bị
quan trấn thủ Nghệ An Lý Bất Nhiêm đẩy lui. Champa bị đế quốc Angkor tái đô hộ
trong suốt 17 năm (1203-1220). Năm 1220 bị quân Xiêm La làm áp lực tại chính
quốc, quân Khmer rút khỏi Champa. Trong gần 100 năm chống chọi và bị Angkor đô
hộ, Champa bị kiệt quệ.
Quân Chân Lạp
vừa rút khỏi Champa, hoàng tử Ansaraja Turaivijaya (tên Khmer là Sri Ajirang)
được hoàng tộc Champa tôn lên làm vua, hiệu Jaya Paramesvaravarman II, đóng đô
tại Viyaja. Vừa lên ngôi, tân vương cho xây lại những tượng đài bị đập phá tại
tháp Sri Sanabhadresvara (Mỹ Sơn) và Po Nagar (Nha Trang), xây thêm các đập
nước, mở rộng diện tích dinh điền, đất nước phồn thịnh trở lại ; nhiều bộ lạc
Thượng trên Tây Nguyên về thần phục. Năm 1230, hoàng tử Abhimanyuvarman, một
vương tôn tỉnh Pankaja người Cathei, được Jaya Paramesvaravarman II cử làm
thống lãnh đất Panduranga. Những tiểu vương kế nghiệp ông được biết đến sau này
tại Panduranga là Po Unvavah, Po Binasur, Po Putrik v.v... (Tên những vương tôn
Champa tại miền Nam Champa, hay tại Panduranga sau này, đều kèm theo chữ Po
(Pô, Pu, Pou hay Poh), có nghĩa là Ông, Ngài hay Vua). Năm 1244, vua Champa tổ
chức nhiều đợt tấn công vào duyên hải Nghệ An và Thanh Hóa, chiếm đóng Bố
Chính, Địa Lý và Ma Linh.
Tại Đại Việt,
sau khi ổn định triều chính, năm 1252 Trần Thái Tôn dẫn đại quân đi đánh
Champa. Cuộc tiến công kéo dài gần một năm, thành Vijaya thắt thủ, vương phi Bố
Gia La cùng nhiều cung phi, tù binh và quan chức triều đình Champa bị bắt mang
về Đại Việt. Jaya Paramesvaravarman II bị tử trận năm 1254, em là hoàng tử
Sakan Vijaya lên thay, hiệu Jaya Indravarman VI. Jaya Indravarman VI duy trì
giao hảo với Đại Việt, triều cống đều đặn. Năm 1257, nhà Trần rút quân về nước,
lúc đó đang bị quân Nguyên (Mông Cổ) đe dọa.
Năm 1257, Jaya
Indravarman VI bị ám sát, hoàng tử Pulyan Sri Yuvaraja, con người chị (công
chúa Suryadevi) lên thay, hiệu Jaya Sinhavarman VI. Năm 1266, hoàng tử Chay
Nuk, con Jaya Paramesvaravarman II, lên kế vị, hiệu Indravarman V. Indravarman
V tiếp tục giao hảo tốt với Đại Việt. Năm 1278, Indravarman V sai hai sứ giả
(Bồ Tinh và Bồ Đột) sang Đại Việt xin bảo hộ và thành lập một liên minh chống
lại quân Mông Cổ.
Hay tin này,
năm 1281, vua Nguyên (Hốt Tất Liệt) cử hữu thống chế Toa Đô (Sogatu) và tả
thống chế Lưu Thâm cùng tham chính A Lý và Ô Mã Nhi mang 10 vạn thủy binh từ
Quảng Châu sang Chiêm Thành buộc Indravarman V phải đích thân về Trung Nguyên
triều cống. Không chống nổi quân Mông Cổ, Indravarman V chịu đặt Champa dưới sự
bảo hộ của nhà Nguyên năm 1282. Toa Đô được nhà Nguyên phong làm thống đốc toàn
quyền cai trị xứ Champa, tiểu vương Champa nào chịu theo quân Nguyên đều được
phong làm phó vương.
Hoàng tử
Harijit Po Devada Svor (hay Po Depitathor), con Indravarman V, cùng mẹ là hoàng
hậu Gaurendraksmi, không chấp nhận sự đô hộ của Mông Cổ rút vào rừng, tổ chức
kháng chiến. Harijit mộ được khoảng 20.000 người, gồm đủ mọi các sắc tộc Thượng
sinh sống trên cao nguyên Ya Heou, phía tây bắc Champa, tấn công quân Nguyên
trên khắp lãnh thổ Bắc Champa. Năm 1283, Toa Đô dẫn đầu một đoàn quân gồm 5.000
người, 100 tàu và 250 thuyền đi dọc theo bờ biển và các con sông lớn đổ bộ lên
Tây Nguyên nhưng bị đánh bại. Quân Mông Cổ - một phần bị bệnh tật, không chịu
đựng nổi khí hậu nóng nực của miền nhiệt đới, một phần vì đói kém, thiếu tiếp
liệu từ lục địa - phải rút về trấn giữ đồng bằng.
Tháng 4-1285,
Toa Đô cùng Ô Mã Nhi mang hải đội từ Champa, trong đó có đội thủy binh người
Chăm, tiến lên ra Bắc hợp với Thoát Hoan vây thành Thăng Long, kinh đô của Đại
Việt. Quân của Thoát Hoan bị quân Trần đánh bại phải rút về nội địa, quân của
Toa Đô bị đánh tan tại Nghệ An. Toa Đô bị chết tại trận, quân Trần bắt được rất
nhiều tù binh Mông Cổ và Chăm, trong đó có hai tướng Chăm tên Lậu Khê và Na
Liên, bị trả về cho vua Champa xử tội. Những binh lính Chăm khác theo Mông Cổ,
không dám về lại quê cũ, theo quân Nguyên về Hoa lục và được cho định cư trên
đảo Hải Nàm, bờ biển nam Quảng Châu, nơi đã có nhiều người Chăm khác đến lập
nghiệp từ năm 992 dưới thời Lưu Kỳ Tông. Những binh lính Chăm này, đa số theo
đạo Hồi, đã lập gia đình với người địa phương và ở lại lập nghiệp. Đây là đợt
di dân thứ hai của người Champa ra hải ngoại.
Năm 1288
Indravarman V mất, hoàng tử Harijit lên ngôi, hiệu Jaya Sinhavarman III (Chế
Mân), đặt kinh đô tại Vijaya. Mặc dù không triều cống nhà Trần, bang giao giữa
Đại Việt và Champa rất là thắm thiết. Chỉ một thời gian ngắn sau Champa hùng
mạnh trở lại, các vương quốc lân bang, trong có Đại Việt cử người sang thông
hiếu đều đặn. Nhiều đền đài được xây cất cả tại đồng bằng lẫn trên cao nguyên.
Chế Mân cho xây một tháp trên đồi Chok Hala, gọi là đồi Trầu, để dân chúng đến
tế lễ, sau này là tháp Po Klong Garai (Tháp Chàm Phan Rang).
Năm 1292 và
1293, trên đường tiến đánh Java (Indonesia) và Madjapahit (Mã Lai) quân Mông Cổ
xin vào bờ mua tiếp liệu nhưng bị Chế Mân từ chối, phải giương buồm đi tiếp.
Cũng nên biết Chế Mân có rất nhiều quan hệ tình cảm với các tiểu vương Nam Đảo.
Vợ cả của Chế Mân là vương phi Bhaskaradevi, con một đại vương Java ; thứ phi
là hoàng hậu Tapasi, con gái một tiểu vương Yavadvipa (Mã Lai). Lãnh thổ Champa
trong thời kỳ này được nới rộng lên cao nguyên Darlac và Langbian, Chế Mân cho
xây một đền thờ tại Yang Prong để đón nhận phẩm vật triều cống của những bộ lạc
Thượng trên Tây Nguyên.
Năm 1301, cựu
hoàng Đại Việt là Trần Nhân Tôn, sau khi nhường ngôi cho con là Trần Anh Tôn,
đi thăm các nước láng giềng. Khi thăm Champa, Trần Nhân Tôn được Chế Mân tiếp
đãi nồng hậu và đã ở lại đây 9 tháng. Để tạ ơn, khi ra về cựu vương hứa gả công
chúa Huyền Trân (em gái Trần Anh Tôn) cho Chế Mân. Cuối năm 1301, Chế Mân sai
Chế Bồ Đày mang lễ vật sang cưới Huyền Trân. Triều đình nhà Trần có nhiều người
không thuận, cuộc thương thảo kéo dài từ 1302 đến 1305 ; sau cùng, mùa hè năm
1306, Chế Mân thuận tặng cho nhà Trần hai châu Ô và châu Rí (châu Lý), phía bắc
đèo Hải Vân, để làm quà cưới, nhà Trần mới chịu và sai Đoàn Nhữ Hài đưa Huyền
Trân về Champa. Tại đây, Huyền Trân được Chế Mân đặt tên là hoàng hậu
Paramesvari.
Châu Ô và châu
Rí là đề tài tranh chấp giữa Đại Việt và Champa trong thời gian sau đó. Năm
1307, Trần Anh Tôn đặt tên lại hai châu mới này thành Thuận châu (Quảng Trị) và
Hóa châu (Thừa Thiên và một phần Quảng Nam ngày nay), rồi giao cho Đoàn Nhữ Hài
cai quản. Châu Thuận gồm các huyện Đăng Xương (nay là Triệu Phong), Hải Lăng,
Phong Điền , Quảng Điền và Hương Trà. Châu Hóa gồm các huyện Phú Vang, Phú Lộc,
Diên Phước và Hòa Vang. Người Chăm sống trong các làng La thỉ, Tác Hồng và Đà
Bồng nổi lên chống sự cai trị của người Việt. Để trấn an dân Champa, Đoàn Nhữ
Hài chấp nhận để người Champa chịu sự quản trị trưc tiếp của các nhân sĩ Champa
địa phương và cho miễn thuế ba năm.
Về chủ quyền,
nông dân Việt đã đến lập nghiệp và khai phá hai châu này từ lâu, nhất là trong
thời gian có chiến tranh với Mông Cổ. Thật ra sự sát nhập này, trên bình diện
nào đó, chỉ là sự hợp thức hóa một sự kiện đã rồi, vì quan hệ cộng sinh giữa
hai chủng tộc đã diễn ra từ lâu đời. Những cuộc hôn nhân dị chủng chắc chắn
không phải là những trường hợp ngoại lệ, với thời gian dân cư Việt có lẽ đã
đông hơn dân cư Chăm tại đây. Sau 5 năm thương lượng gay go giữa hai triều đình
về của hồi môn, năm 1306 vua Trần Anh Tôn chấp thuận gả công chúa Huyền Trân
cho Chế Mân, bù lại lãnh thổ bắc Champa (Indrapura) : châu Ô và châu Lý thuộc
nhà Trần. Cuộc hôn nhân dị chủng này đã trở thành tranh chấp giữa hai dân tộc
và hai triều đình suốt thời gian sau đó. Cho đến nay chưa một tài liệu nào giải
thích về trường hợp công chúa Huyền Trân một cách rõ ràng và có tính thuyết
phục. Người Champa tố cáo nhà Trần lợi dụng cuộc hôn nhân này để chiếm đoạt đất
đai của họ. Thơ văn Việt Nam bênh vực Huyền Trân như là nạn nhân của một vụ đổi
chác chính trị và đả kích Chế Mân (với những lời lẽ khiếm nhã) dám sánh ngang
hàng với người Việt…
Những lý luận
vừa kể chứng tỏ sự thiếu hiểu biết về phong tục tập quán của người Chăm. Khi
cựu vương Trần Nhân Tôn hứa gả Huyền Trân cho Chế Mân, ông muốn thành lập một
liên minh quân sự chống lại quân Mông Cổ khi bị tấn công. Nhưng chiến lược này
đã không được quần thần chấp nhận vì không muốn một sự pha chủng nào trong quan
hệ hoàng gia.
Có lẽ bà hoàng
hậu thứ ba này của Chế Mân đã rất được sủng ái nên sử tích Chăm kể rằng Huyền
Trân được nhà vua đưa đi thăm viếng những danh lam thắng cảnh của Champa. Các
suối nước nóng dọc bờ biển miền Trung được dành riêng cho bà tắm rửa, kể cả
suối Vĩnh Hảo (huyện Tuy Phong, Phan Thiết), để hạnh phúc của vua và hoàng hậu
được bền lâu. Nhưng hạnh phúc đã không dài lâu. Hơn một năm sau, tháng 5-1307
Chế Mân từ trần. Hung tin đến tai nhà Trần bốn tháng sau đó, tháng 9-1307. Lo
sợ em gái mình bị hỏa thiêu??? Trần Nhân Tôn sai quan nhập nội hành khiển
thượng thư tả bộc sạ Trần Khắc Chung và quan an phủ sứ Đặng Văn sang Champa
phúng điếu rồi tìm kế đưa Huyền Trân về.
Việc hỏa thiêu
vợ khi vua băng hà là hoàn toàn bịa đặt. Nếu Huyền Trân bị triều đình Champa
bắt chết theo Chế Mân thì bà đã bị hỏa thiêu từ lâu rồi, vì theo tục lệ của
người theo đạo Hồi hay Bà La Môn xác người chết chỉ giữ tối đa là 7 ngày sau đó
phải đem hỏa thiêu.
Thật ra trong
vụ này triều đình Champa đã quyết định trả Huyền Trân về lại cho nhà Trần để
đòi lại hai châu Ô và Rí nên đã tiếp đón phái đoàn Trần Khắc Chung một cách ân
cần và cấp hơn 300 thủy binh hộ tống. Sự từ khước kết nghĩa suôi gia này có một
ý nghĩa đặc biệt, nó thể hiện sự từ chối hợp tác giữa hai nền văn minh và văn
hóa khác nhau, một bên là văn minh văn hóa Khổng Mạnh và một bên là văn minh
văn hóa Ấn Độ. Cả hai vương triều gần như chấp nhận sự khác biệt đó và không
muốn có một sự hòa hợp nào.
Còn chuyện hỏa
thiêu có lẽ đã do Trần Khắc Chung thêu dệt ra để được Trần Anh Tôn cử sang
Champa đón Huyền Trân về nước. Sau khi gặp lại người yêu, thay vì căng buồm về
Bắc ông dẫn Huyền Trân ra một hoang đảo tư thông với nhau trong suốt một năm
liền, đến mùa thu năm 1308 mới lên thuyền về lại Thăng Long. Đoàn thủy binh
Chăm lúc đó mới được giao trả cho Champa để báo cáo sự việc.
Cũng nên biết,
nhà Trần áp dụng chế độ nội hôn để bảo vệ quyền lợi hoàng tộc. Việc Trần Khắc
Chung tư thông với Huyền Trân được coi là bình thường. Nhưng triều đình Champa
không chấp nhận và rất căm hận về chuyện này, vì Huyền Trân là hoàng hậu Champa
bị một quan Việt thông dâm xúc phạm đến danh dự hoàng triều và tín ngưỡng quốc
gia. Có lẽ cũng chính vì thế mà Hưng Nhượng đại vương Trần Quốc Tảng (con Trần
Hưng Đạo) mắng "họ tên người này không tốt, có lẽ nhà Trần mất vì người
này chăng?", vì Khắc là thắng, Chung là tàn (thắng xong thì tàn lụi theo).
Cuộc tình sử tay ba này ít được người đời nhắc tới mà chỉ nói về cuộc hôn nhân
dị chủng mà thôi.
Về phía Champa,
đền thờ Chế Mân được lập tại Tháp Po Klong Garai (Tháp Chàm, Phan Rang) và tại
Yan Prong (An Khê, Đắc Lắc) cạnh núi Se San. Dân chúng thờ ông dưới tên Sri
Jaya Sinhavarma Lingesvara.
Hoàng tử Po Sah
- 23 tuổi, con của chánh hậu Bhaskaradevi (người Java), tước Pulyan
Mahendravarman tiểu vương lãnh địa từ sông Vok (sông Bung) đến bắc Bình Định
(Bhumana) - lên thay năm 1307, hiệu Jaya Sinhavarman IV (còn gọi là Chế Chí hay
Chế Dà La). Việc đầu tiên của tân vương là xúi giục dân Chăm tại Thuận châu và
Hóa châu nổi loạn.
Năm 1311, Trần
Anh Tôn tấn công Champa, bắt Chế Chí về giam tại cung Gia Lâm (và mất năm
1313), đưa em trai của Chế Chí là Chế Đà A Bà Niêm lên thay, hiệu Chế Năng. Năm
1314 Chế Năng kéo quân ra Bắc chiếm lại châu Ô và châu Rí và chỉ bị đẩy lui năm
năm sau đó. Năm 1318, quân Trần tiến xuống Đồ Bàn, Chế Năng cùng hoàng gia chạy
sang Java lánh nạn, triều đình Champa bị bỏ trống. Đây là đợt di dân thứ ba của
người Chăm ra hải ngoại. Chế Năng là con thứ hậu Tapasi, người Yavadvipa.
12.Triều
vương thứ mười hai (1318-1390) :
Năm 1318, nhà
Trần phong một tướng Champa tên Thủ (Patalthor) lên ngôi, hiệu Chế A Năng (hay
Thành A vương, tương đương với tước phó vương của Đại Việt). Vì không thuộc
dòng dõi bộ tộc Cau và Dừa, Chế A Năng liên tục bị triều thần chống đối từ 1323
đến 1326. Để có sự chính thống, năm1323 Chế A Năng cử em trai là Pao Yeou
Patseutcho đi sứ sang. Trung Hoa xin nhà Nguyên công nhận. Hay tin này, năm 1326
nhà Trần mang quân đánh nhưng bị đẩy lùi.
Năm 1342 khi
Chế a năng mất, con rể Jaya
harivanrman III lên ngôi (Trà hoa bồ Để theo âm việt gọi) ( Theo
nguyễn khôi cách dùng họ và tên các dân tộc việt nam: họ Trà là dòng vương tôn
champa phiên âm từ Jaya chữ phạn mà ra, bồ để theo tiếng chăm là thống soái đọc
theo âm việt). Jaya
harivanrman III thuộc vương
triều thứ 12, Triều đại thứ 9, đóng đô ở thành Vijaya (Đồ bàn, bình định), giai
đoan cực thịnh của vương quốc Champa. Có nhiều sử sách đại việt viết rằng ông cướp
ngôi Chế mỗ ( hoàng tử), nhưng thực ra ông lên ngôi vì quyết định của vua cha
Chế a Năng và hội đồng hoàng gia champa. Vì Chế mỗ nhu nhược và ăn chơi sa đọa.
Ông lên ngôi để đãm trách một sứ mệnh lịch sử mà champa giao cho ông. Vương
quốc ông trị vì trải dài từ dãy hoàng liên sơn phía bắc, nam giáp đến Đồng nai
ngày nay. Đông giáp biển champa (biển đông), tây giáp tây lào. Kinh tế phát
triển mạnh mẽ dựa vào nguồn đánh bắt thủy sản đồi mồi, ngọc trai, yến sào , ngà
voi, trầm hương.., nền nông nghiệp trồng lúa nước nổi tiếng đông nam á, sản
suất gốm sứ sa huỳnh, điêu khắc, dệt thổ cẫm, công nghiệp sản xuất đồng, đồng
thau phát triển rực rỡ, đội tàu thuyền hùng mạnh cung cấp hàng hóa cho một vùng
rông lớn Đông á và tây á. Quản lí một vùng biển champa rộng lớn (biển đông). Trong
khoảng thời điểm đó, Người Champa rất nổi tiếng trong việc buôn bán các loại
gia vị , hồ tiêu và tơ lụa với các nước như Trung Quốc, Ấn độ, Nusantara (
Indonesia, Malaysia, brunei…ngày nay) và nước Abbasiah ở Baghdad . Vào khoảng
thời gian này, người Champa được biết đến với tài đi biển rất giỏi và những
thương nhân tài ba. Quân đội gồm những đội tượng binh hằng ngàn voi chiến, đội
thuyền chiến hùng hậu, đẩy lui các cuộc xâm lược ngoại bang khmer và đại việt
trong thời gian trị vì, bảo vệ đất nước. Năm 1360, Trà Hoa Bồ Để qua đời, em
Chế A Năng là Po Binasor (Po Bhinethuor) được triều thần tôn lên làm vua, hiệu
Chế Bồng Nga (Che Bonguar). Chế Bồng Nga là một vị tướng tài, chỉ huy nhiều
trận đánh vào lãnh thổ Đại Việt. Vừa lên ngôi, ông liền tổ chức lại quân đội,
chuẩn bị chiến tranh với nhà Trần nhằm chiếm lại những phần lãnh thổ bị mất.
Những tù trưởng và bộ lạc trên Tây Nguyên theo Chế Bồng Nga rất đông.
Từ 1360 đến
1370, quân Champa ra vào lãnh thổ Đại Việt như chốn không người. Dân cư Đại
Việt lập nghiệp dọc các vùng bờ biển Bố Chánh, Tân Bình, Thuận Hóa (Nghệ An,
Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên) sinh sống rất khổ sở trước nạn binh đao. Từ
1371 đến 1383, quân Champa đã ba lần chiếm đóng Thăng Long và năm 1390 lúc đang
tiến vào Thăng Long thì Chế Bồng Nga bị
tử trận, chấm dứt một trang sử anh hùng.
Nét đặc biệt
của Chế Bồng Nga là mỗi lần đánh phá xong, ông cho rút quân về bên kia đèo Hải
Vân chứ không cho người ở lại quản trị trực tiếp những vùng đất vừa bị chiếm
như những vua trước, vì người Champa tin rằng trấn đóng những vùng đất lạ sẽ
mang tai họa và cũng không muốn bị hao tổn lực lượng bởi những hành động kháng
chiến. Tuy vậy vẫn có thể nói trong vòng 30 năm, Chế Bồng Nga đã khôi phục lại
những vùng đã mất từ hơn 300 năm trước đó (Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh bị mất
năm 1069, châu Ô, châu Rí năm 1306).
Chế Bồng Nga
chết, quân Champa như rắn không đầu liền bị rối loạn, quân Trần sát hại rất
nhiều. Các vùng đất dưới ảnh hưởng Champa đều được thu hồi. Lê Quí Ly (tức Hồ
Quí Ly sau này) kinh lý các vùng đất Hóa châu và Thuận châu, tổ chức lại việc
phòng thủ và cho xây dựng lại những nơi bị tàn phá. Phan Mãnh được bổ nhiệm cai
trị hai xứ Tân Bình (Quảng Bình) Thuận Hóa (Quảng Trị và Thừa Thiên). Nhà Trần
đưa dân chúng từ các vùng trung du, vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã vào định
cư tại Tân Bình và Thuận Hóa.
13.Triều
vương thứ mười ba (1390-1458) :
Bị đánh bại năm
1390, tướng La Khải (Ko Cheng) chiếm được xác Chế Bồng Nga mang đi hỏa táng,
rồi thu quân về nước. Về Đồ Bàn, La Khải liền xưng vương và chịu triều cống nhà
Trần trở lại. Năm 1391, La Khải xin nhà Minh thừa nhận nhưng đến năm1413 con
của ông là Ba Đích Lại được nhà Minh tấn phong.
Chính sách cai
trị khắt khe của La Khải gây bất mãn trong nước. Vây cánh của Chế Bồng Nga đều
bị La Khải thay bằng những tướng sĩ thân tín, con trai của Chế Bồng Nga tên Chế
Ma Nô Dã Na cùng em là Chế San Nô sợ bị ám hại đã chạy qua Đại Việt xin tị nạn.
Cả hai được nhà Trần phong tước Hiệu chính hầu. Năm 1397, một hoàng thân tên
Chế Đà Biệt, em là Mộ Hoa, con là Gia Diếp cùng toàn thể gia quyến sang Đại
Việt tị nạn. Chế Đà Biệt được Lê Quí Ly giao trọng trách bảo vệ biên giới phía
nam của Đại Việt đề phòng những cuộc tấn công mới của quân Champa. Năm 1400, La
Khải mất, con là Ba Đích Lại (Jaya Sinhavarman V) lên ngôi.
Tại Đại Việt,
năm 1400 Lê Quí Ly lên ngôi vua, đổi thành họ Hồ. Cũng nên biết, lúc nhà Trần
suy yếu vai trò của Lê Quí Ly trở nên nổi bật và trực tiếp điều khiển triều
đình từ 1372. Vì thiếu sự chính thống, Hồ Quí Ly thường ra oai bằng cách tấn
công Champa và các lãnh thổ Chiêm Động (nay là Thăng Bình, Quảng Nam, hay bắc
Amavarati), Cổ Lũy (nay là Tư Nghĩa (Quảng Ngãi), Bạt Đạt Gia, Hắc Bạch (nam
Quảng Ngãi, bắc Bình Định) và Sa Lý Nha (tức Sa Huỳnh) lần lượt bị sát nhập từ
1400 đến 1403. Vựa lúa lớn nhất Bắc Champa bị mất hẳn, toàn bộ đất đai tại
Indrapura và Amaravati (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam và Quảng
Ngãi) cũng không còn. Những vùng đất mới được phân thành châu Thăng, châu Hoa, châu
Tư và châu Nghĩa ; bốn châu mới này họp lại thành lộ Thăng Hoa do một quan an
phủ sứ cai trị, chỗ giáp giới đặt thành trấn Tân Ninh. Chế Ma Nô Dã Na (con Chế
Bồng Nga), lúc đầu làm Thăng Hoa quận vương để chiêu dụ dân chúng Chăm, sau
được phong Cổ Lũy thượng hầu giữ hai châu Tư và Nghĩa. Quí Ly đưa những nông
dân cùng gia đình không có đất cày từ những châu khác ở phía bắc vào khai phá
đất mới. Người Champa không chấp nhận sống dưới sự cai trị của người Việt bỏ đi
lên núi hoặc về Vijaya (Đồ Bàn) lập nghiệp.
Năm 1403, Ba
Đích Lại yêu cầu nhà Minh can thiệp để đòi lại Indrapura và Amavarati, nhưng bị
nhà Hồ từ chối. Chỉ khi nhà Hồ bị dẹp và nước Đại Ngu bị nhà Minh đô hộ, từ 1407
đến1427, Champa mới phục hồi lại sức mạnh quân sự và những vùng đất đã mất dưới
tay nhà Hồ đều lấy lại được.
Năm 1407, hoàng
tử NgaukGlaunVijaya (con Ba Đích Lại) cất quân đánh Đại Việt, giết quan trấn
thủ lộ Thăng Hoa là Chế Ma Nô Dã Na (con của Chế Bồng Nga). Ba Đích Lại được
nhà Minh phong vương năm1413. Mặc dù vậy, dân chúng Champa không muốn di dân
lên những vùng đất vừa chiếm lại lập nghiệp, chỉ một số người muốn trở về để
giữ gìn hương hỏa mà thôi. Dẹp yên phía Bắc, Ba Đích Lại mang quân xuống tấn
công vương quốc Chân Lạp phía nam đang suy yếu, vì bị Xiêm La đánh phá liên tục.
Quân Champa chiếm được nhiều vùng đất lớn dọc sông Đồng Nai và trên đồng bằng
sông Cửu Long. Quân Khmer bị đuổi tới thành phố Chantabun, gần biên giới Xiêm
La, vua Chau Ponea Yat phải cầu cứu nhà Minh và quân Minh đã hai lần tiến vào
Champa (1408 và 1414) làm áp lực Champa mới chịu rút quân, Chân Lạp thoát nạn
đô hộ. Mặc dầu vậy, quân Champa cũng chiếm được thị trấn Nagara Brah Kanda (thị
xã Biên Hòa ngày nay).
Năm 1428, Lê
Lợi đuổi được quân Minh ra khỏi lãnh thổ và lên ngôi vua, hiệu Thánh Tổ. Trước
thế lực của nhà Lê, Ba Đích Lại trả những vùng đất đã chiếm dưới thời nhà Minh,
đổi thành lộ Thuận Hóa thuộc đạo Hải Tây và đặt quan cai trị. Việc giao hảo
giữa Champa và Đại Việt trở nên tốt đẹp.
Năm 1433 Lê Lợi
mất, con là Nguyên Long, 11 tuổi, lên ngôi hiệu Thái Tôn, Ba Đích Lại liền đòi
lại những vùng đất đã mất. Năm 1434, ông cho quân sang đánh phá các vùng đất
(Hóa châu) vừa giao trả trước đó, vua Lê phải cử Lê Khôi và Lê Chiếc ra dẹp,
vua Champa mới chịu triều cống trở lại.
Thật ra từ 1390
đến 1433 Champa không có vua, đất nước lâm vào cảnh nội loạn. Đối với người
Champa, La Khải và Ba Đích Lại chỉ là những kẻ soán ngôi. Năm 1433, quần thần
Champa đưa công chúa Po Sahnar về miền Nam cai trị (Panduranga), đóng đô tại
Phan Rí, không tuân lệnh Vijaya. Hoàng tử Nauk Glaun Vijaya thân chinh đi đánh
dẹp, gây nhiều thù oán với các dòng vương tôn Champa phía nam như bắt công chúa
Po Sahnar về giam tại Vijaya. Chính vì thế năm 1441 khi Ba Đích Lại qua đời,
Nauk Glaun Vijaya không được triều thần cho nối ngôi mà đưa người cháu của cố
vương là Maha Kilai (Mã Kha Qui Lai) lên thay. Chú của tân vương là Po
Parichanh tự đứng ra nhiếp chính, rồi tự xưng vương năm 1442, hiệu Bí Cai (Maha
Vijaya) được nhà Minh công nhận.
Vừa lên ngôi,
Bí Cai liền mang quân tấn công nhà Lê và bị đánh bại. Vua Lê Nhân Tôn tiến
chiếm Phật Thành (còn gọi là Đồ Bàn, Chà Bàn, Vijaya) bắt được nhiều vương tôn
Champa, trong đó có công chúa Po Sahnar, rồi rút về. Ba Đích Lại cùng hoàng gia
phải chạy lên núi trốn trong những buôn làng của người tây nguyên như Trà Toàn
(Po Ka Prah), Trà Toại (Po Ka Prih). Kinh đô Phật Thành (Vijaya) bị nhà Lê đổi
thành Đồ Bàn.
Trong hai năm
1444 và 1445, Bí Cái nhiều lần dẫn quân tiến vào Hóa châu nhưng đều bị đẩy lùi.
Năm 1446, được Maha Quí Lai hướng dẫn, quân Lê chiếm thành Đồ Bàn, bắt sống Bí
Cai và tất cả phi tần đem về Thăng Long. Maha Quí Lai được nhà Lê tôn lên làm
vua Champa và chịu triều cống, quan hệ giữa hai nước tốt đẹp trở lại. Năm 1448,
Lê Nhân Tôn đánh dẹp các lực lượng Thượng do những hoàng tôn Champa lãnh đạo,
chiếm xứ Bồn Man (Djarai-Kontum) và đặt thành châu Quy Hợp rồi giao cho một
vương tôn Champa thần phục nhà Lê cai quản.
Năm 1449 Maha
Quí Lai bị người em tên Bí Do (Maha Kido) bắt giam rồi xưng vương. Bí Do sai
Giao Nể Mỗ và Bàng Thoan sang Đại Việt báo tin, vua Lê không những không công
nhận mà còn khiển trách nặng nề. Sau biến cố này, Bí Do đuổi 70 gia đình Việt
định cư tại Champa về nước rồi ngưng luôn việc xin tấn phong. Năm 1452, Quí Lai
mất, Bí Do sai sứ sang Trung Hoa xin nhà Minh công nhận và được phong vương năm
1457.
14.Triều
vương thứ mười bốn (1458-1471) :
Năm 1458 thái tử Po Tam (Po Dam hay Po Kathit), con Bí Cai, giết Bí Do rồi
tự xưng vương, hiệu Bàn La Trà Nguyệt (Maha Banla Trà nguyệt). Năm 1460, Trà
Nguyệt nhường ngôi cho em là Po Kaprah, hiệu Bàn La Trà Toàn (Maha Trà Toàn).
Trà Toàn cử người sang Đại Việt xin tấn phong nhưng bị nhà Lê buộc dâng phẩm
vật triều cống nên Trà Toàn tức giận. Trong hai năm 1468 và 1469,
Trà Toàn vừa cho người sang cầu viện nhà Minh vừa mang đại quân (100.000 người)
sang chiếm Hóa châu (1469-1471).
Tức giận trước
sự khiêu khích này, vua Lê Thánh Tôn quyết định phạt Champa một lần cho đích
đáng. Trước khi ra quân, ngày 6-10-1471, nhà vua đọc hịch Bình Chiêm trước ba
quân, lời lẽ rất đanh thép, rồi cho sứ sang Trung Hoa báo cáo sự xâm phạm lãnh
thổ của Champa. Lê Thánh Tôn cất đại quân hơn 250.000 người sang đánh Champa,
trong đó 100.000 đi bằng đường thủy, 150.000 đi bằng đường bộ. Đại quân nhà Lê
chiếm cửa Thị Nại rồi tiến về Đồ Bàn. Trà Toàn sai em là Po Kaprih dẫn đội
tượng binh gồm 5.000 người ra đối chọi nhưng bị đánh bại, Trà Toàn rút vào cố
thủ thành Đồ Bàn.
Thành Vijaya
thất thủ vào ngày 2 tháng 3 năm 1471 sau bốn ngày giao tranh. Vua Champa là Trà
Toàn bị bắt sống và tự sát trên đường chở về Thăng Long (12/04/ Al tức năm 1471)
. Trong cuộc tiếp kiến, Trà Toàn xin vua Lê chỉ làm tội một mình ông và tha cho
con cái cùng thần dân Champa. Trên đường về tới Nghệ An, Trà Toàn bị giết chết. Lê Thánh Tôn sai cắt đầu Trà Toàn treo ở
đầu thuyền và cho khắc chữ "Cổ Chiêm Thành ngươn ác Trà Toàn chi
thủ". Ít nhất hơn 60.000 người Chăm bị giết và 30.000 bị bắt làm nô tỳ cho
quân Đại Việt. Kinh thành Vijaya bị phá hủy hoàn toàn. Đây là cuộc tàn sát đẫm
máu nhất của đại việt với champa. Hoàng tộc champa chạy sang Malacca ( khoảng
20.000 trốn thoát bằng thuyền qua cửa đầm thi nại, trong đó có con vua trà toàn
là Indravarman và bàn la trà ko lai (Pau liang). Sau cuộc chính biến lịch sử
này rất nhiều người di cư chính trị Champa đã đến các vùng đất Mã Lai , một số
khác thì tới Melaka . Cũng trong đoàn người di cư đó là hai hoàng tử con vua
Champa Trà Toàn , đó là Indra varman và Pau Liang. Bằng chứng được tìm thấy trong
thời kì này chứng minh sự gắn kết lịch sử giữa Champa và Mã Lai là Al-kisah 29
trong đó đã kể lại câu chuyện về một người Nakhoda Champa có tên là Sayyid
Ahmad đã làm bạn cùng Hang Tuah ( một anh hùng rất nổi tiếng trong lịch sử Mã
Lai) và cùng đến Inderapura (Pahang Malaysia) để trốn Tun Teja đến Melaka. Sức
mạnh Champa được chứng minh là lớn hơn cả vùng Pahang sau khi được giúp đỡ của
người anh hùng Melaka trốn khỏi Tun Teja. sự có mặt của Nakhoda Champa tại
Melaka và Pahang này lại được chứng minh bằng một cơ sở chắc chắn sau khi tìm
được trong Al-kisah ke-34 nói về cuộc hôn nhân giữa một công chúa thuộc dòng
tộc Champa với một quý tộc ở Melaka. ( theo Sejarah Melayu Champa +Ban La Tra
Toan memerintah di ibu kota Sri Vini (Sri Raja Than Ton). Setelah Kota Vijaya
jatuh. Raja Champa pun mati terbunuh. Dengan kejatuhanibu ota Vijaya ini ramai
pelarian politik Cham yang menuju ke daerah Melayu yang selamatk, antara lain
ke Melaka. Yang termasuk dalam pelarian itu ialah dua orang putera raja
Champa, iaitu Indravarman dan Pau Liang di atas. Gambaran Sejarah Melayu
tentang Champa terdapat dalam Al-Kisah ke 29 yang menceritakan seorang Nakhoda
Champa yang bernama Sayyid Ahmad bersahabat dengan Hang Tuah pergi ke
Inderapura (Pahang) untuk melarikan Tun Teja Ke Melaka. Kekuatan Champa
berdasarkan fakta jelas lebih besar daripada perahu Pahang hingga dapat
menolong pahlawan Melaka itu melarikan Tun Teja. Kehadiran tokoh Nakhoda Champa
di Melaka dan di Pahang dapat dihubungkan pula dengan wujudnya pedagang Champa
di Banten seperti yang diceritakan oleh Sejarah Melayu dalam Al-Kisah ke-34
menceritakan perkahwinan seorang puteri keturunan Champa dengan anak seorang
pembesar Melaka.) khoảng 30000 người chạy sang lào và campuchia sau cuộc tàn
sát đẫm máu này. Lê Thánh Tôn giải tán vương quốc Champa. Thủ đô chính trị,
hành chánh và tín ngưỡng của vương quốc Bắc Champa .Vijaya bị đổi thành Đồ Bàn
và cấm người Champa đến cư ngụ.
Em Trà Toàn là
Po Kaprih dẫn theo một số tàn quân trốn lên xứ Bồn Man (cao nguyên Kontum- Darlac),
được dân chúng tôn lên làm vua. Po Kaprih xưng hiệu Trà Toại và cho người sang
Trung Hoa cầu cứu nhà Minh, báo cáo tình hình Champa. Lê Thánh Tôn sai Lê Niệm
mang 30.000 quân lên Tây Nguyên lùng bắt Trà Toại đem về trị tội.
Nhà Minh không
tán thành việc Đại Việt chiếm đóng Champa nhưng không dám can thiệp trực tiếp,
kể cả việc xin phóng thích Trà Toàn và hoàng gia Champa. Năm 1472 nhân vua Lê
Thánh Tôn sai sứ sang Trung Hoa báo cáo sự tình, Minh Hiển Tông trách cứ việc
chiếm đế đô Đồ Bàn. Sau đó nhà Minh sai sứ sang phong vương cho Trà Toại nhưng
khi đến cửa Tân Châu (Quảng Nam) quân Lê không cho cập bờ. Lê Thánh Tôn phản
đối việc phong vương này và tuyên bố Champa đã trở thành một châu của Đại Việt
: châu Giao Nam. Nhà Lê phong cháu của Trà Toàn tên Bố Trì Tri (Thái Da) làm
vương đất Giao Nam (còn gọi là Phan Long).
15- 1471-1653:
Sự thất thủ Kauthara
Ðại Việt đã
quyết định dành cho Po Trì Trì (cháu vua Trà Toàn) quyền cai trị trên lãnh thổ
Champa còn lại ở miền nam, tức là vùng Kauthara, Panduranga và vùng Cao Nguyên
ở phía tây của Panduranga. Khi đã nhận ân huệ này, Bố Trì Trì cũng tìm cách xin
Trung Quốc chính thức hóa vương chức của mình. Tiếc rằng, ông ta chỉ nhận sự
trả lời của Trung Quốc sau một thời gian ngắn, trước khi ông ta đã từ trần.
Ngày nay lưu truyền ngôi mộ ông vẫn còn ở ninh thuận.
Theo sử liệu
của trung Quốc , tiếp theo Bố Trí Trì, có hai vị vua kế tiếp nối ngôi, nhưng sử
liệu này không cho biết tên tuổi và năm tháng nhậm chức của họ. Nếu theo biên
niên sử Panduranga, vị vua kế vị Bố Trì Trì (theo dòng vương tôn Trà) có thể là
Po Kabih (1494-1530), Po Karutdrak (1530-1536), Po Maha Sarak (1536-1541), Po
Kunarai (1541-1553), Po At (1553-1579).
Vương quốc ở
miền nam dưới quyền cai trị Po tri tri và những ông vua (theo dòng vương tôn
Trà) nối tiếp, vẫn còn mang tên là Champa trong những sử liệu viết bằng tiếng
Chăm và Việt. Nhưng vương quốc Champa này đã bắt đầu lánh xa dần với truyền
thống của Champa theo Ấn Ðộ Giáo ở miền bắc. Mọi cơ cấu tổ chức hành chánh,
chính trị và xã hội của Vương Quốc này đều dựa trên nền tảng cơ bản riêng biệt
của tập tục và tín ngưỡng của địa phương mình. Qua sử liệu còn để lại, nền văn
minh của vương quốc Champa “mới” này chỉ là một sự tổng hợp của ba truyền thống
tín ngưỡng khác biệt, đó là di sản văn hóa cổ truyền địa phương của Panduranga
và Kauthara, một số ảnh hưởng còn dư lại của tín ngưỡng Bà La Môn Giáo, và nhất
là từ thế kỷ thứ 17, tín ngưỡng Hồi Giáo du nhập vào ở các hải cảng vùng
Panduranga và Kauthara.
Qua ngày từ
trần của Lê Thánh Tông vào năm 1497, Ðại Việt lại rơi vào nội chiến giữa chúa
Trịnh cai trị miền bắc và chúa Nguyễn, tự xưng vương và đặt thủ đô của mình ở
gần khu vực Huế bây giờ. Chính chúa Nguyễn mới là tác giả chính thức của chính
sách “Nam Tiến” chủ yếu để di chuyển tối đa biên giới của mình về miền nam của
Champa . Ngược lại, với những gì mà nhiều nhà nghiên cứu thường nêu ra, cuộc
“Nam Tiến” của chúa Nguyễn đã gặp một sức kháng cự mãnh liệt của các nhà lãnh
đạo Champa “mới” này. Ngoài chính sách đương đầu chống lại “Nam Tiến” của chúa
Nguyễn, vương quốc Champa cũng mấy lần áp dụng chính sách “Bắc Tiến”, thí dụ
vào năm 1578, cho tới Phú Yên để thu hồi lại một thành lũy đã rơi vào tay nhà
Nguyễn.
Vào cuối thế kỷ
thứ 16, Champa “mới” bao gồm một dải đất chạy dài từ biên giới Saigon đến đèo
Cù Mông (phía nam Bình Ðịnh) vẫn còn đủ điều kiện để nuôi dưỡng một đoàn quân
khá hùng mạnh. Chính vì thế, vào năm 1594, vua Champa, (dường như đã theo Hồi
Giáo), đã gởi một đoàn quân sang giúp vua Johor, một tiểu vương quốc ở miền nam
bán đảo Mã Lai, để chống lại thực dân Bồ Ðào Nha ở Malaka. Chính nhờ quân lực
hùng mạnh này, Po Nit (1603-1613) đã quyết định xuất trận tiến đánh Quảng Nam,
một khu vực hành chánh nằm trong lãnh thổ của nhà Nguyễn. Trước hành động này,
chúa Nguyễn cũng xuất quân để chinh phạt Champa. Thừa cơ hội chiến thắng, chúa
Nguyễn xâm chiếm khu vực Phú Yên và dời biên giới phía nam của mình đến Cap
Varella, ở phía bắc Nha Trang. Sau đó, chúa Nguyễn biến đổi lãnh thổ này thành
Dinh Trấn Biên và đưa hơn ba chục ngàn tù binh của nhà Trịnh sang khu vực này
để phát hoang khai triển kinh tế.
Dẫu thất bại,
Champa “mới” vẫn giữ nguyên được truyền thống bất khuất của Champa, đó là
truyền thống đấu tranh để bảo vệ quyền độc lập, và nhất là sự sống còn của quốc
gia này. Chính vì thế, vương quốc Champa không ngần ngại tiến quân chống lại sự
xâm lược của nhà Nguyễn ở Dinh Trấn Biên (Phú Yên) vào năm 1620. Vào khoảng ba
chục năm sau, tức là năm 1653, vua Champa là Po Nraop chuẩn bị lực lượng quân
sự của mình để tuyên chiến với chúa Nguyễn, thu phục lại khu vực Phú Yên bị rơi
vào tay của Nguyễn vào năm 1611. Trước tình thế này, chúa Nguyễn đã gởi một
đoàn quân hùng mạnh sang tấn công Champa, tiến đến sông Phan Rang, bắt được vua
Po Nraop và cưỡng bách vua này ngồi trong rọ bằng sắt để đưa về Huế. Vì không
chịu để cho nhà Nguyễn hành xử mình, Po Nraop quyết định tự hủy thân để nêu cao
tinh thần bất khuất của mình. Nhân cơ hội này, chúa Nguyễn cũng xâm chiếm vùng
Nha Trang và dời biên giới của mình đến khu vực Cam-ranh . Thế là tiểu vương
quốc Kauthara lại rơi vào tay nhà Nguyễn vào năm 1653 và khu vực này bị biến
đổi thành Dinh Thái Khang và Diên Khánh trong hệ thống hành chánh nhà Nguyễn .
Kauthara thất
thủ, đền thiêng liêng của Po Ina Nagar “Bà Mẹ Vương Quốc” ở Nha Trang lọt vào
vòng kiểm soát của nhà Nguyễn. Chính vì thế, vua Champa quyết định rước Po Ina
Nagar về Phan Rang để được thờ phụng trong một cái đền ở Mông Ðức gần làng Hữu
Ðức bây giờ. Kể từ năm 1653, đất đai Champa tự thu hẹp lại trong lãnh địa của
tiểu vương quốc Panduranga, mà nhà sử học thường gọi là vương quốc Panduranga- Champa.
16.Thời
kỳ 1653-1771: Sự suy yếu của Panduranga
Năm năm sau
ngày thất thủ Kauthara (Nha Trang), tức là năm 1658, chúa Nguyễn, lợi dụng sự
khủng hoảng chính trị trong nội bộ Campuchia, dùng vũ lực để xâm chiếm khu vực
Saigon-Biên Hoà. Sự hiện diện của quân đội nhà Nguyễn ở Saigon đã đưa Panduranga
vào địa thế mới, đó là vương quốc này đã trở thành một khu vực nằm ngay chính
giữa lãnh thổ mà nhà Nguyễn đã làm chủ đất đai: Biên Hoà ở phía nam và Nha
Trang ở phía bắc. Bị kìm kẹp và bị bao vây, Panduranga-Champa đã mất đi toàn
diện những địa thế quân sự trọng yếu của mình.
Chưa đầy 40 năm
làm chủ Biên Hòa, chúa Nguyễn quyết định tiếp tục áp dụng chính sách “Nam Tiến”
của mình. Ðể trả đủa cuộc tấn công của vua Po Saot nhằm thu hồi lại vùng thánh
địa Kauthara (Nha Trang) vào năm 1692, chúa Nguyễn đưa một đoàn quân hùng mạnh
để thanh toán vương quốc này. Sau khi thắng trận, nhà Nguyễn đổi danh xưng
Chiêm Thành (Campapura) thành Trấn Thuận Thành, đặt dưới quyền cai trị của một
ông Tham Mưu của quân viễn chinh nhà Nguyễn. Một năm sau, nhà Nguyễn xóa bỏ
Trấn Thuận Thành để thành lập Phủ Bình Thuận và giao quyền quản trị phủ này cho
em của vua Po Saot . Cuối năm 1692, Panduranga-Champa đã biến mất trên bản đồ
Ðông Dương với tính cách là một quốc gia chủ quyền.Vì không chấp nhận sự hiện
diện quân nhà Nguyễn trên lãnh thổ mình và vì không chấp nhận nhà Nguyễn tự xóa
bỏ vương quốc này trên bản đồ, toàn bộ nhân dân Panduranga-Champa vùng dậy đánh
đuổi quân xâm lược trong suốt hai năm trường, từ 1693-1694. Vì không thể kháng
cự lại sự vùng dậy của toàn bộ nhân dân của vương quốc này, chúa Nguyễn quyết
định giao trả lại quyền độc lập cho Panduranga-Champa, nhưng độc lập dưới sự
bảo trợ chính trị và quân sự của mình. Kể từ đó, danh xưng Thuận Thành đã trở
thành thông lệ trong văn bản nhà Nguyễn để gọi Panduranga-Champa. Khi đã thu
hồi độc lập, nhà Nguyễn phong vương cho Po Saktiraydaputih, em của vua Po Saot
và cũng là một tù binh của nhà Nguyễn trong trận chiến vào năm 1692.
Mặc dù giao trả
quyền độc lập cho Panduranga-Champa, nhà Nguyễn quyết định giữ quyền cai trị
trực tiếp của mình trên cộng đồng Việt kiều sống trong lãnh thổ Champa. Chính
sách này nhằm kiểm soát chặt chẽ mọi biến cố xảy ra ở Panduranga-Champa và nhằm
điều động Việt kiều này, khi cần thiết, để gây chiến tranh chống lại vương quốc
Champa. Ðể áp dụng chính sách này, nhà Nguyễn thành lập một phủ Bình Thuận rất
là đặc biệt trong lãnh thổ Panduranga-Champa vào năm 1697. Theo tư liệu hoàng
gia Panduranga viết bằng tiếng Chăm và Hán, kể từ năm 1702, tất cả Việt kiều
sống trong Panduranga-Champa không trực thuộc quyền quản trị của vương quốc
này, nhưng trực thuộc phủ Bình Thuận của nhà Nguyễn. Phủ Bình Thuận này là một
cơ quan đại diện cho nhà Nguyễn, có vai trò để giải quyết với chính quyền
Panduranga-Champa mọi vấn đề liên quan đến quyền lợi Việt kiều sống ở vương
quốc này.Sự hiện diện của Việt kiều núp sau cái bóng hình của phủ Bình Thuận là
nguyên nhân chính yếu đưa đến xự xung đột hàng ngày giữa đồng bào
Panduranga-Champa và cộng đồng Việt kiều. Và xự xung đột này thường xảy ra
chung quanh vấn đề khủng hoảng đất đai. Vì rằng Việt kiều càng ngày càng mở
rộng lãnh thổ của mình, hoặc qua các cuộc mua bán ruộng đất một khi dân tộc
Champa bị thiếu nợ, hoặc qua các cuộc chiếm đất bất hợp lệ trong những khu vực
hoang vắng. Kể từ đó, Panduranga-Champa không còn biên giới cố định, vì lãnh
thổ có một hình dạng như vết dầu loan, nằm xen kẻ trong biên giới của đất đai
thuộc phủ Bình Thuận của nhà Nguyễn
17. Thời
kỳ 1771-1832: Những ngày cuối cùng của Champa
Năm 1771 đánh
dấu cuộc vùng dậy của Tây Sơn chống lại chế độ bạo tàn của nhà Nguyễn. Công
trình đấu tranh của Tây Sơn bắt đầu lan rộng trong khắp nước. Trước tình thế
này, nhà Nguyễn từ bỏ thủ đô mình để lui về ẩn náu ở khu vực đồng bằng sông
Mékong, chờ đợi thời cơ khôi phục lại đất nước. Kể từ ngày ấy Tây sơn làm chủ
miền bắc, còn hoàng tử Nguyễn Ánh của nhà Nguyễn làm chủ miền nam. Thế là
Panduranga-Champa, vì địa thế của mình, một lần nữa trở thành nạn nhân của
chiến tranh giữa người Việt với người Việt, một cuộc chiến tranh chẳng có gì
liên hệ với vương quốc Champa. Theo sử liệu của Việt Nam , mục tiêu tiên quyết
của Nguyễn Ánh và Tây Sơn là phải chiếm cho kỳ được Panduranga-Champa để làm
nhịp cầu tiến quân chống phá thành Saigon do Nguyễn Ánh trấn giữ hay chống phá
Nha Trang dưới sự kiểm soát của Tây Sơn. Làm chủ Panduranga-Champa tức là làm
chủ tình hình quân sự trong sự xung đột này. Chính vì thế, kể từ năm 1771 vương
quốc Panduranga-Champa đã trở thành một bãi chiến trường khủng khiếp giữa quân
Tây Sơn và lực lượng Nguyễn Ánh. Trước biến cố này, sự sống còn của
Panduranga-Champa chỉ là một giấc mơ huyền ảo và nó tùy thuộc hoàn toàn vào kết
quả của chiến tranh giữa người Việt Nam hơn là tuỳ thuộc vào ý muốn của mình.
Năm 1802,
Nguyễn Ánh đánh bại tàn quân Tây Sơn, làm chủ toàn diện lãnh thổ Việt Nam, sau
đó lên ngôi lấy danh hiệu là Gia Long. Khi chiến tranh đã chấm dứt, Gia Long
quyết định trao trả lại cho vương quốc Panduranga-Champa, không phải là quyền
độc lập, nhưng là quyền tự trị dưới sự bảo hộ của triều đình Huế. Sau đó, Gia
Long phong tước cho ông Po Soang Nhung Ceng, một tướng tài gốc người Chăm (tổ
tiên bà Thềm ở Phan Rí), đã từng tham gia với Nguyễn Ánh để chống Tây Sơn,
quyền cai trị vương quốc này. Mặc dù là một vương quốc tự trị, nhưng Po Saong
Nhung Ceng có quyền tuyệt đối trên nhân dân của Panduranga, có quyền thành lập
quân đội riêng và quyết định thuế má riêng trong lãnh thổ của mình. Thành hình
trong qui chế thuộc địa Việt Nam, nếu Gia Long quyết định cho tái lập lại vương
quốc Panduranga-Champa, đó là để tỏ bày sự cám ơn của mình đối với tướng Saong
Nhung Ceng đã có công trong công trình đánh đuổi Tây Sơn hơn là bày tỏ ý muốn
của mình để vương qưốc Champa này được phục hồi lại . Dù trong hoàn cảnh nào đi
nữa, Panduranga-Champa cũng là một vương quốc tự trị dưới sự bảo trợ của Gia
Long, nhất là dưới sự che chở tối đa của ông Lê Văn Duyệt, Tổng Trấn Gia Ðịnh
Thành. Năm 1802, Gia Long từ trần. Minh Mệnh kế tiếp cha mình để cai trị toàn
vẹn Việt Nam. Sau ngày lên ngôi, Minh Mệnh xóa bỏ tất cả chính sách liên quan
đến Panduranga-Champa do Gia Long để lại, và quyền kiểm soát của Lê Văn Duyệt
trên vương quốc này. Vấn đề này đã dẫn đến sự xung đột giữa Minh Mệnh và Tổng
Trấn Gia Ðịnh Thành. Kể từ ngày ấy, Panduranaga-Champa lại trở thành nạn nhân
lần thứ hai trong biến cố chính trị giữa người Việt Nam. Khi Po Saong Nhung
Ceng đã từ trần ở Champa (chứ không phải ông vua này là người chạy sang
Kampuchea lánh nạn như người ta thường hiểu lầm), Minh Mệnh tự phong tước cho
một người Chăm kề cận của mình lên ngôi. Lê văn Duyệt phản đối lại Minh Mệnh,
tự quyết định cho con của Po Saong Nhung Ceng lên làm vua Panduranga-Champa, để
trấn giữ trọn vẹn quyền kiểm soát chính trị và hành chánh của vương quốc này.
Nhiều sử liệu cũng nêu lên rằng, năm 1832 là năm đánh dấu một khúc quanh lịch
sử lớn lao trong chính sách bang giao giữa Panduranga-Champa và triều đình Huế.
Nếu từ năm 1822 đến 1828, vương quốc này trực thuộc dưới quyền kiểm soát của
triều đình Huế, nhưng sau năm 1828, Panduranga-Champa đã trở thành một vương
quốc đặt dưới quyền cai trị của Gia Ðịnh Thành. Chính vì thế, sự sống còn của
Panduranga-Cham hôm nay tùy thuộc hẳn vào tư thế mạnh , yếu của Lê VDuyệt đối
với Minh Mệnh. Năm 1832, Lê Văn Duyệt từ trần. Tức tốc, Minh Mệnh quyết định
chiếm đóng Panduranga-Champa, cho lệnh trừng trị thẳng tay tất cả quan chức nào
trong vương quốc đã theo Lê Văn Duyệt , Minh Mệnh đã áp dụng chính sách tàn bạo
chống lại nhân dân Champa vì tội không chịu phục tùng triều đình Huế. Sau cuộc
trừng phạt này, Minh Mệnh cho lệnh xóa bỏ Panduranga-Champa trên bản đồ Ðông
Dương, chia lại đất đai này thành hai huyện An Phước và Hòa Ða trực thuộc tỉnh
Bình Thuận. Thế là, vương quốc Panduranga-Champa hoàn tàn bị diệt vong vào năm
1832.
-1832-1835: Sự vùng dậy cuối cùng
Những chính
sách tàn bạo của một số quan chức Minh Mệnh, nhằm trừng trị thẳng tay nhân dân
Champa vì tội theo Lê Văn Duyệt là nguyên nhân chính yếu giải thích cho sự vùng
dậy của dân tộc Champa vào năm 1833. Ðói khát, tù đày, xử trảm không cần lý do,
không cần xét xử, tập trung người dân Champa vào lao dịch trong những nông
trường kinh tế, đốt cháy làng xã thành tro bụi, v.v. là sự việc diễn ra hàng
ngày sau ngày mất nước. Không thể kham nổi những sự khốn khổ này, Katip Sumat,
một nhà lãnh đạo tinh thần Hồi Giáo, kêu gọi quần chúng nổi dậy, thành lập một
mật trận kháng chiến Hồi Giáo, dùng chiến tranh tử vì đạo (Jihâd) chống lại
Minh Mệnh để dành độc lập Champa. Phong trào kháng chiến của Katip Sumat đã trở
thành một mối đe dọa lớn cho Minh Mệnh trong khu vực này. Chính thế, ngoài đoàn
quân hùng mạnh của triều đình Huế, Minh Mệnh kêu gọi tất cả Việt kiều sống ở
đây góp sức để đánh phá toàn diện lực lượng Katip Sumat vào năm 1834.
Nếu sử liệu
Việt Nam ít nói đến cuộc nổi dậy của Katip Sumat, thì sử liệu này không bỏ lỡ
cơ hội viết về biến cố 1834-1835, biến cố mà triều đình Huế coi đó là một cơ
cấu cách mạng mới mang hình thức “Mật Trận Giải Phóng” hơn là hình thức nổi
loạn. Ðúng vậy, Ja Thak Wa, người làng Văn Lâm (Ninh Thuận), là một quan chức
lớn trong triều Champa thời trước, là người đứng ra thành lập Mật Trận Giải
Phóng, và thành lập chính phủ lâm thời để điều hành công cuộc cách mạng giải
phóng Champa. Lấy khu Ðồng Nai, nơi mà dân Việt không dám xâm nhập, để làm mật
khu. Ông ta đứng ra đề nghị một ông hoàng tử gốc Raglai, dòng Po Romé, lên ngôi
của vương quốc. Ông kêu gọi toàn dân Champa, cả anh em cao nguyên và người Chăm
cùng đứng dậy chống lại quân xâm lược Minh Mệnh. Sau khi chiếm đóng khu vực
Phan rang, ông cho lệnh tiến đánh khu vực Phú Yên và Bình Ðịnh. Tiếc thay, ông
bị tử trận ở làng Hữu Ðức (Phan Rang) vào năm 1835. Phong trào của Ja Thak Wa
được coi như là cuộc nổi dậy cuối cùng sau ngày mất nước của vương quốc Champa
vào năm 1832.
Sau cái chết
của Ja Thak Wa, Minh Mệnh phát động một chính sách vô cùng tàn bạo để trừng trị
những ai dính dáng vào cuộc cách mạng này: trưng thu ruộng đất, theo dõi và bắt
bớ, tập trung cải tạo và tù đày tối đa, cấm phân phối lương thực, thiêu đốt
làng xã cho đến quật cả mồ mã những gia đình theo cách mạng . Sau cùng, để kiểm
soát sự tập trung của dân tộc Champa, Minh Mệnh cho lệnh dời hết tất cả làng xã
Champa đi chổ khác để thành lập làng xã người Việt. Chương trình dời làng
xã người Champa là một chính sách nhằm phá hủy toàn bộ cơ cấu tổ chức cổ truyền
của xã hội và gia đình người dân Champa thời đó. họ định diệt chủng một phần
hay toàn bộ sắc tộc đáng thương này? Sự diệt vong của Champa có một nguyên nhân
chính yếu, đó là vương quốc này đã trở thành một nạn nhân của chính sách Nam
Tiến Việt Nam. Nơi giao lưu và triệt hạ lẫn nhau của 3 nền văn hóa lớn: Ấn
độ-trung hoa và trung đông Sau ngày diệt vong, vương quốc này chỉ để lại sau
lưng mình mốt số di tích lịch sử đã chôn sâu vào lòng đất lạnh, hai cộng đồng
nhân chủng xuất thân từ dân tộc Champa thời trước. Cộng đồng đầu tiên gồm vào
khoảng 300.000 anh em Tây nguyên ở miền trung Việt Nam. Nhóm thứ hai vào khoảng
100.000 người Chăm ở vùng Phan Rang, Phan Rí, 30.000 ở khu vực Châu Ðốc và Tây
Ninh, hơn 150.000 lánh nạn ở Kampuchea, 100000 người ỏ malaysia, indonesia .Thế
rồi qua thời gian thăng trầm của nhiều biến cố lịch sử mà theo nhiều sử gia và
học giả phương Tây thì biến cố 2/3/1471 đánh dấu sự giải thể vương quốc Champa
và không một biên khảo lịch sử hay niên giám triều đình Champa nào được phổ
biến từ sau ngày đó. Tuy nhiên trong thực tế thì sinh hoạt triều chính của các dòng
vương tôn Champa vẫn tiếp tục, với một qui mô tuy nhỏ hẹp nhưng không kém phần
nghiêm túc.
18.TÓM TẮC CÁC TRIỀU
ĐẠI VUA CHAMPA
***Triều đại
thứ nhất
-192 - 230 Sri
Mara (Khu Liên)
-230-270:???
-270 – 282
(Phạm Hùng )
- 283 – 336
Phạm Duật
***Triều đại
thứ hai
-336 – 349 Phạm
Văn
-349-
380:Bhadravarman( Phạm Phật )
-380 – 413 Drama maha raya (Phạm Hồ
Đạt Fan houta)
-413- 419 Bhadravarman (Phạm Tu Đạt)
-Gangajai (Địch Châu)
***Triều đại thứ ba
-420 -421:Phạm Dương Mại 1 (fan yang
mai)
-421 – 445:Phạm Dương Mại thứ 2 (wen
ti)
-Khoảng 455– 472:Phạm Thần Thành
hiệu: Devanika
- 484 – 491: Phạm Đang Căng Thuần (
Khmer Cướp ngôi) Kieou Tcheou lo
- 491 – 498 Phạm Chư Nông
-502 - 510 Phạm Văn Tẩn Fan wen
kuoan
-510 – 514 Deta varman (Phạm Thiên
Khởi)
-526 – 527 Vikrantavarman
(Bật Tồi Bật Ma - Cao Thức)
***Triều đại
thứ tư: thời kỳ quá độ giữa Lâm Ấp và Vương quốc Chăm Pa
-529 – 572
Rudra varman
- 605 – 629
sambhu varman (Phạm Phan Chí)
- 640 – 645
Kandharpa djarma (Phạm Đầu Lê)
- 645 - ? Bhara
dharma (Phạm Trấn Long)
-Bhadrecvara varman
-Kandarpa dharma
-Prakacadharma
-663 – 679
Vikranta varman
- 686 – 731
Vimanta varman II
-749 Rudra varman
II
***Triều đại
thứ năm: Pânduranga
-khoảng
757-770: Prithivîndra varman
-khoảng
774-780: Satya varman
-khoảng
793-803: Indra varman
-khoảng
801-817: Hari varman
-khoảng
820-850: Vikrânta varman III
***Triều đại
thứ sáu: Bhrigu
- 854-898:
Indra varman II
-898-903: Jaya
Simha varman I
-903-905:Jaya
Saktivarman
-905-910:
Bhadra varman II
-918- 959:
Indra varman III (hồi giáo)
-971-982:
Paramesvara Varman I (Bê Mị Thuế)
-982: Indra varman
IV
-983-986: Lưu
Kế Tông (Cướp ngôi)
-988:
Indravarman V
***Triều đại
thứ bảy: Indrapura
-991-999:
Vijaya Shri Hari varman II (Băng vương la Huệ)
-999-1007: Po
Alah (Yan Pu Ku Vijaya Shri) (Dương-phổ-cu Bi-trà-xá-lợi).
-khoảng 1010: Hari varman III ( sri
harivarmadeva)
-1018-1021:
Parasmesvara Varman II
-1021-1030:
Vikranta Varman II
-1030-1044:
Po-Tik (Jaya Simha varman II) (sạ đẫu)
***Triều đại
thứ tám: Vijaya
-1044-1060:
Jaya Paramesvara Varman I (Ứng Ni)
-1060-1061:
Bhadra Varman III
-1061-1074:
Rudra Varman III ( Chế cũ)
***-Triều đại
thứ chín: Sud
-1074-1080:
Hari varman IV
-1080-1081:
Jaya Indra varman II
-1081-1086:
Paramabodhisattva
-1086-1113:
Jaya Indra varman II (lên ngôi lần thứ hai)
-1113-1129:
Harivarman V
-1139-1145:Po-Sulika
(Jaya Indra varman III )
-1145-1147: Phó
vương Harideva (thuộc đế quốc Khmer)
-1147-1166:
Jaya Harivarman I ( Chế bi la but)
-1166-1167:
Jaya Harivarman II
-1167-1190:
Jaya Indravarman IV
-1190-1191:
Surya Jayavarman tại Vijaya
-1191-1192:
Jaya Indra varman IV tại Pandurang
-1192-1203:
Surya Jaya varman (lên ngôi lần thứ hai)
-1203-1220:
Thời kỳ trực thuộc đế quốc khmer
-1220-1252:
Jaya Paramesvara Varman II (sri ajiang)
-1252-1257:
Jaya Indravarman V
-1257-1285: Jaya
Indravarman VI
-1285-1307:
Po-Depitathor (Jaya Simha varman III) ( Chế Mân )
-1307-1313:
Jaya Simha varman IV (Chế Chí)
-1313-1318: Chế Năng
-1318-1342: Che Anan (Chế A Năng)
-1342-1360: Jaya Harivarman VII (Trà Hoa Bồ Để)
-1360-1390: Po Binasor (Che Bonguar)
( Chế Bồng Nga)
-1390-1400:
Simha varman VI (La Khai tức La Ngai)
-1400-1441:
Jaya Indra varman VIII (Ngauk Klaung)
-1441-1446:
Vijaya (Bí Cai)
-1446-1449:
Maha kilai (Ma Ha Quí Lai )
-1449-1458:
Po-Parichanh (Maha-vijaya) (Ma Ha Quí Do)
-1458-1460: Po
Kathit (Maha banla tra nguyet) (Bàn La Trà nguyệt )
-1460-1471 Po
KaPrah (Maha banla Trà Toàn)
***Thời kỳ suy
tàn: 1471-1696: Thời kỳ đất nước bị chia cắt. Triều đại Po là phiên thuộc của
Việt nam
-1471-1494- Po
Trì Trì Jaya varman Mafoungnan
-1494-1530-Po
Kabih
-1530-1536-Po
Krut Drak
-1536-1541-Po
Maha Sarak
-1541-1553-Po Kunarai
-1553-1579-Po At
-1579-1603-Po Klong Halau
-1603-1613-Po
Nit
-1613-1618-Po
Chai Paran
-1618-1622-Po
Ehklan
-1622-1627 -Po
Klong Menai (Mahataha)
-1627-1651- Po
Rome
-1651-1653-Po Nraup– Bà Tấm
-1653-1659-Po Thot
- 1659-1692- Po Sout
- 1693-1728- Po Saktiray daputih Kế
Bà Tử
-1696-1728: Po
Saktirai da putih
-1728-1730: Po
Ganvuh da putih
-1731-1732: Po
Thuttirai
-1733-1734:
không có vua
-1735-1763: Po
Rattirai
-1763-1765: Po
Tathun da moh-rai
-1765-1780: Po
Tithuntirai da paguh
-1780-1781: Po
Tithuntirai da parang
-1782: không có
vua
-1783-1786:
Chei Krei Brei
-1786-1793: Po
Tithun da parang
-1793-1799: Po
Lathun da paguh
-1799-1822: Po
Chong Chan
-1832: Bị xác
nhập hoàn toàn vào việt nam
-1832-1835: Ja
Thak Wa (cuộc khởi nghĩa cuối cùng)
-
Phần trước của tháp Sáng năm 2006 khi dân làng chưa trồng cây lấy gỗ trong khu di tích - Ảnh: H.V.M.
Đó là những mô tả ngắn gọn của phó giáo sư - tiến sĩ Ngô Văn Doanh (Viện Nghiên cứu Đông Nam Á) về tầm vóc vĩ đại của Đồng Dương - Phật đô và cũng là kinh đô Champa hơn ngàn năm trước. Cũng theo ông Doanh: “Toàn bộ khu di tích là những cụm kiến trúc kế tiếp nhau chạy dài suốt 1.330m theo hướng từ tây sang đông. Trong đó khu đền thờ nằm trong một vành đai hình chữ nhật dài 300m, rộng 240m, có tường bao quanh...”.
Phật viện Đồng Dương và kinh thành Indrapura:
- Khu di sản khảo cổ duy nhất, nổi bật toàn cầu.
- Đại diện một kiến trúc Phật viện cổ duy nhất trong kinh đô Indrapura của Champa xưa.
- Tồn tại gần 600 năm.
- Mang nội hàm của một di sản thế giới.
DI TÍCH THÀNH CỔ ĐỒNG DƯƠNG
Theo công bố năm 1901 của L. Finot, đã phát hiện ở Đồng Dương
229 hiện vật, trong đó có pho tượng Phật bằng đồng nổi tiếng cao hơn 1m - một
trong những tượng Phật cổ nhất và vào loại đẹp nhất ở Đông Nam Á.
Một
năm sau, năm 1902, nhà khảo cổ học người Pháp H. Partmentier đã tiến hành khai
quật Đồng Dương, phát hiện quần thể kiến trúc lớn vào loại bậc nhất và cũng độc
đáo nhất của Champa và Đông Nam Á...”.Phần trước của tháp Sáng năm 2006 khi dân làng chưa trồng cây lấy gỗ trong khu di tích - Ảnh: H.V.M.
Đó là những mô tả ngắn gọn của phó giáo sư - tiến sĩ Ngô Văn Doanh (Viện Nghiên cứu Đông Nam Á) về tầm vóc vĩ đại của Đồng Dương - Phật đô và cũng là kinh đô Champa hơn ngàn năm trước. Cũng theo ông Doanh: “Toàn bộ khu di tích là những cụm kiến trúc kế tiếp nhau chạy dài suốt 1.330m theo hướng từ tây sang đông. Trong đó khu đền thờ nằm trong một vành đai hình chữ nhật dài 300m, rộng 240m, có tường bao quanh...”.
Phật viện Đồng Dương và kinh thành Indrapura:
- Khu di sản khảo cổ duy nhất, nổi bật toàn cầu.
- Đại diện một kiến trúc Phật viện cổ duy nhất trong kinh đô Indrapura của Champa xưa.
- Tồn tại gần 600 năm.
- Mang nội hàm của một di sản thế giới.
Sau ngày phô ra được với hậu thế chút vàng son còn lại của
mình, suốt hơn trăm năm qua Đồng Dương hoàn toàn bị chìm trong quên lãng để rồi
ngày nay chỉ còn lại cảnh đổ nát hoang tàn do đạn bom chiến tranh cùng sự xâm
hại của con người.
Tháp linh trong ký ức dân làng
Từ ngã tư Hà Lam (huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam) trên quốc lộ 1A rẽ sang quốc lộ 14E đi khoảng 12km, rồi theo đường làng chừng 400m là đến với Đồng Dương. Tên di tích được gọi theo tên làng, trước khi được người Pháp khám phá từng được ghi trong Đại Nam nhất thống chí (triều Nguyễn) trong phần tỉnh Quảng Nam: “Huyện Lệ Dương có hai tháp ở làng Đồng Dương. Hai tháp cách nhau 15 trượng, có một tòa cao bốn trượng, xây gạch trên hình bát giác, dưới hình vuông, mỗi mặt dài một trượng. Cách đó 40 trượng có nền cũ”. Làng Đồng Dương nay thuộc xã Bình Định Bắc, huyện Thăng Bình.
Di tích quốc gia được công nhận từ năm 2001 nay chỉ còn hai trụ cùng một mảng tường gầy guộc, lở lói được chống đỡ tứ bề, bao quanh là rừng cây trồng sát chân tường. “Đây là phần trước của tháp Sáng. Những năm 1964-1965, tháp Sáng còn khá nguyên vẹn, thiếu nhi tụi tui thường vào trong tháp vui chơi. Năm 1967, bom Mỹ đánh sập tháp Sáng, chỉ còn mấy cái trụ đó!” - ông Trà Tấn Vụ, bí thư thôn Đồng Dương, kể.
Tháp linh trong ký ức dân làng
Từ ngã tư Hà Lam (huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam) trên quốc lộ 1A rẽ sang quốc lộ 14E đi khoảng 12km, rồi theo đường làng chừng 400m là đến với Đồng Dương. Tên di tích được gọi theo tên làng, trước khi được người Pháp khám phá từng được ghi trong Đại Nam nhất thống chí (triều Nguyễn) trong phần tỉnh Quảng Nam: “Huyện Lệ Dương có hai tháp ở làng Đồng Dương. Hai tháp cách nhau 15 trượng, có một tòa cao bốn trượng, xây gạch trên hình bát giác, dưới hình vuông, mỗi mặt dài một trượng. Cách đó 40 trượng có nền cũ”. Làng Đồng Dương nay thuộc xã Bình Định Bắc, huyện Thăng Bình.
Di tích quốc gia được công nhận từ năm 2001 nay chỉ còn hai trụ cùng một mảng tường gầy guộc, lở lói được chống đỡ tứ bề, bao quanh là rừng cây trồng sát chân tường. “Đây là phần trước của tháp Sáng. Những năm 1964-1965, tháp Sáng còn khá nguyên vẹn, thiếu nhi tụi tui thường vào trong tháp vui chơi. Năm 1967, bom Mỹ đánh sập tháp Sáng, chỉ còn mấy cái trụ đó!” - ông Trà Tấn Vụ, bí thư thôn Đồng Dương, kể.
Bia đá - “tấm căn cước” của Đồng Dương - nằm chơ vơ trên đất,
bị mưa nắng trăm năm bào mòn mặt chính, chỉ còn đọc được chữ ở hai mặt hông.
May mà khi đến đây các học giả Pháp còn có thể đọc được những con chữ ở mặt
chính của bia ký này!
Tháp Sáng còn khá nguyên vẹn trong khung cảnh khai quật năm 1902 - Ảnh tư liệu
Trong các phế tích Chăm ở miền Trung không đâu có lượng gạch vương vãi nhiều như ở Đồng Dương. Khắp khu rừng trồng rộng lớn trong khu phế tích, cả đường ngang ngõ dọc của làng Đồng Dương dày đặc vụn gạch đỏ au, màu đặc trưng của gạch Chăm ngàn năm trước. Đối diện tháp Sáng là tháp Tối, ở giữa là tháp Trung Tâm, tất cả nay chỉ là những đống gạch vụn bị vùi lấp dưới rừng cây. Tên gọi tháp Sáng, theo cư dân, do tháp có nhiều cửa, còn tháp Tối chỉ có một cửa.
Ngày xưa, theo lời lão làng Trà Diếu, giữa tháp Tối có giếng vuông, khi thả quả bòng xuống giếng nó sẽ trôi ra ao Vuông, một hồ chứa nước rộng gần 2ha. Thủy đạo ngầm ấy vẫn chưa được biết rõ nhưng con đường nối từ khu đền tháp chính (tháp Sáng, tháp Tối và tháp Trung Tâm) đến khu ao Vuông được các nhà khảo cổ Pháp thời đó khảo tả: “Con đường rộng, dài 763m chạy về hướng đông, tới một thung lũng hình chữ nhật dài 300m, rộng 240m”. Theo ông Trà Tấn Vụ, thung lũng đó chính là khu ao Vuông và con đường từ Phật viện đến ao Vuông được người xưa lát gạch, nay vẫn còn dấu vết ở một vài đoạn. Lão làng Trà Diếu cho rằng giữa khu đền tháp và khu ao Vuông không chênh lệch nhiều về cao độ, thế hệ ông cha của ông đã khám phá thủy đạo ngầm từ tháp Tối đến ao Vuông cũng được xây bằng gạch.
Với lớp người tuổi kề cận lục tuần như ông Vụ, tầm vóc hoành tráng của Đồng Dương vẫn còn in đậm trong ký ức họ. Sau khi chỉ cho tôi đâu là vết tích thành nội, thành ngoại vốn được xây gạch kiên cố, ông Vụ hướng dẫn tôi đến những phế tích khác khắp các hướng của làng mà theo ông: “Hồi xưa ông cha mình gọi những tháp này là tháp bót gác, có lẽ do kích thước nhỏ của tháp. Cái gần nhất cách khu tháp chính chừng 700-800m, cái xa nhất cách chừng 1.500m. Có tất cả tám tháp bót gác, riêng hướng bắc có đến bốn tháp...”. Lão làng Trà Diếu cho rằng những tháp bót gác này là tháp thờ trấn giữ khu Phật viện, người Pháp cũng khai quật các tháp bót gác này lấy tượng và tìm của báu.
Còn in đậm trong ký ức của lão làng Trà Diếu là chuyện lấy vàng từ con voi đá đặt nơi “công viên” của Phật viện Đồng Dương: “Đó là năm Bảo Đại thứ 5 (1934), tui mới 6 tuổi, theo cha đi coi người Pháp đổ nước vô cái lỗ trên lưng con voi (đá) cái. Tại vị trí xa nhất nơi nước từ con voi chảy ra, họ đào xuống, lấy được vàng. Con voi đó được họ chở đi rồi, chỉ để lại con voi (đá) đực, không có lỗ trên lưng, còn đến bây giờ...”.
Ông Vụ vẫn còn nhớ vẻ mặt dữ dằn của pho tượng thần hộ pháp bị chở khỏi Đồng Dương năm 1962, lúc ông mới lên 7. Theo mô tả của ông Diếu, tượng các hộ pháp cao 1,14m và tượng các môn thần cao 2,15m - những tượng đá “đẹp nhất và có giá trị nhất” chỉ có ở Đồng Dương - được dựng thành hai hàng xen kẽ với những “trụ đèn” (theo cách gọi của cư dân) dọc hai bên con đường từ khu tháp chính ra bên ngoài.
Tượng voi (cách điệu) bên đường vào làng là tượng đá duy nhất
của Đồng Dương được cư dân giữ lại Tháp Sáng còn khá nguyên vẹn trong khung cảnh khai quật năm 1902 - Ảnh tư liệu
Trong các phế tích Chăm ở miền Trung không đâu có lượng gạch vương vãi nhiều như ở Đồng Dương. Khắp khu rừng trồng rộng lớn trong khu phế tích, cả đường ngang ngõ dọc của làng Đồng Dương dày đặc vụn gạch đỏ au, màu đặc trưng của gạch Chăm ngàn năm trước. Đối diện tháp Sáng là tháp Tối, ở giữa là tháp Trung Tâm, tất cả nay chỉ là những đống gạch vụn bị vùi lấp dưới rừng cây. Tên gọi tháp Sáng, theo cư dân, do tháp có nhiều cửa, còn tháp Tối chỉ có một cửa.
Ngày xưa, theo lời lão làng Trà Diếu, giữa tháp Tối có giếng vuông, khi thả quả bòng xuống giếng nó sẽ trôi ra ao Vuông, một hồ chứa nước rộng gần 2ha. Thủy đạo ngầm ấy vẫn chưa được biết rõ nhưng con đường nối từ khu đền tháp chính (tháp Sáng, tháp Tối và tháp Trung Tâm) đến khu ao Vuông được các nhà khảo cổ Pháp thời đó khảo tả: “Con đường rộng, dài 763m chạy về hướng đông, tới một thung lũng hình chữ nhật dài 300m, rộng 240m”. Theo ông Trà Tấn Vụ, thung lũng đó chính là khu ao Vuông và con đường từ Phật viện đến ao Vuông được người xưa lát gạch, nay vẫn còn dấu vết ở một vài đoạn. Lão làng Trà Diếu cho rằng giữa khu đền tháp và khu ao Vuông không chênh lệch nhiều về cao độ, thế hệ ông cha của ông đã khám phá thủy đạo ngầm từ tháp Tối đến ao Vuông cũng được xây bằng gạch.
Với lớp người tuổi kề cận lục tuần như ông Vụ, tầm vóc hoành tráng của Đồng Dương vẫn còn in đậm trong ký ức họ. Sau khi chỉ cho tôi đâu là vết tích thành nội, thành ngoại vốn được xây gạch kiên cố, ông Vụ hướng dẫn tôi đến những phế tích khác khắp các hướng của làng mà theo ông: “Hồi xưa ông cha mình gọi những tháp này là tháp bót gác, có lẽ do kích thước nhỏ của tháp. Cái gần nhất cách khu tháp chính chừng 700-800m, cái xa nhất cách chừng 1.500m. Có tất cả tám tháp bót gác, riêng hướng bắc có đến bốn tháp...”. Lão làng Trà Diếu cho rằng những tháp bót gác này là tháp thờ trấn giữ khu Phật viện, người Pháp cũng khai quật các tháp bót gác này lấy tượng và tìm của báu.
Còn in đậm trong ký ức của lão làng Trà Diếu là chuyện lấy vàng từ con voi đá đặt nơi “công viên” của Phật viện Đồng Dương: “Đó là năm Bảo Đại thứ 5 (1934), tui mới 6 tuổi, theo cha đi coi người Pháp đổ nước vô cái lỗ trên lưng con voi (đá) cái. Tại vị trí xa nhất nơi nước từ con voi chảy ra, họ đào xuống, lấy được vàng. Con voi đó được họ chở đi rồi, chỉ để lại con voi (đá) đực, không có lỗ trên lưng, còn đến bây giờ...”.
Ông Vụ vẫn còn nhớ vẻ mặt dữ dằn của pho tượng thần hộ pháp bị chở khỏi Đồng Dương năm 1962, lúc ông mới lên 7. Theo mô tả của ông Diếu, tượng các hộ pháp cao 1,14m và tượng các môn thần cao 2,15m - những tượng đá “đẹp nhất và có giá trị nhất” chỉ có ở Đồng Dương - được dựng thành hai hàng xen kẽ với những “trụ đèn” (theo cách gọi của cư dân) dọc hai bên con đường từ khu tháp chính ra bên ngoài.
Đợi chờ từ phế tích
Cả ông Vụ và lão làng Diếu đều cho rằng những người họ Trà - vốn chiếm số đông ở làng Đồng Dương hiện nay - là hậu duệ của những người Chăm tiền bối ở đất này, cùng sống chung và kết hôn với những cư dân Đại Việt đến đây trong hành trình mở cõi về phương Nam. Tuy được người Chăm chọn làm kinh đô nhưng Đồng Dương và vùng phụ cận đều không gần kề những dòng sông lớn nên đất đai cằn cỗi. Chỉ đến khi các nhà khảo cổ Pháp tới đây khai quật và nghiên cứu, người ta mới được biết những ngôi tháp cổ Đồng Dương là di tích của một tu viện Phật giáo trong lòng kinh đô Indrapura của vương triều Indrapura do vua Indravarman II sáng lập năm 875.
Lão làng Trà Diếu cho biết thời trước chiến tranh, với cư dân địa phương, những gì thuộc về di tích Đồng Dương dù chỉ là viên gạch cũng linh thiêng, không ai dám động đến nếu không muốn bị thần linh “quở phạt”. Là vị thầy cúng cuối cùng chuyên giải trừ sự “quở phạt” của thần linh, ông Diếu còn nhớ rõ những tai họa mà dân làng gặp phải khi lấy gạch ở di tích về sử dụng. Nhưng không ngờ sau chiến tranh mọi sự đều đảo lộn bởi “bom đã phá sập tháp rồi, còn gì linh thiêng nữa mà sợ!” - ông Vụ chua chát. Khi đó người Đồng Dương thoải mái lấy gạch ở di tích về xây nhà, xây chuồng trại, kéo theo cư dân ở một số làng lân cận. Dân làng đã đào bới sập cả hai vòng thành nội, thành ngoại với nhiều đoạn còn khá bề thế và nhiều người còn tìm kiếm của báu dưới lòng đất.
Năm 1978, khi đào bới ở khu Phật viện, một số người đã tìm
thấy một pho tượng đồng. Sau đó dân làng quyết giữ lại pho tượng thay vì giao
nộp cho ngành chức năng. Pho tượng đồng cao 1,14m, nặng 120kg này là tượng Bồ
tát Lokesvara - tượng chính của thánh đường (trong khu Phật viện) - một báu vật
quốc gia. “Hồi đào lên người ta làm sứt cái búp sen to bằng trái cau ở tay phải
của tượng, chỉ bông sen nở ở tay trái còn nguyên vẹn. Cái búp sen được chính
quyền xã hồi đó giữ lại cho địa phương, vẫn còn mãi đến giờ, được bàn giao qua
mỗi đời chủ tịch xã...” - ông Vụ kể. Hai báu vật Đồng Dương không mất: tượng
Phật được người Pháp khai quật năm 1901 hiện được trưng bày tại Bảo tàng Lịch
sử TP.HCM, còn tượng Bồ tát Lokesvara được đặt ở Bảo tàng Champa Đà Nẵng.Tộc trà, nơi vùng đất "sinh tụ"- Đồng Dương xưa vốn là kinh đô cổ, là “trái tim” của vương quốc Chămpa với quy mô bề thế của một Trung tâm Thiền viện Phật giáo bậc nhất của khu vực Đông Nam Á.Cả ông Vụ và lão làng Diếu đều cho rằng những người họ Trà - vốn chiếm số đông ở làng Đồng Dương hiện nay - là hậu duệ của những người Chăm tiền bối ở đất này, cùng sống chung và kết hôn với những cư dân Đại Việt đến đây trong hành trình mở cõi về phương Nam. Tuy được người Chăm chọn làm kinh đô nhưng Đồng Dương và vùng phụ cận đều không gần kề những dòng sông lớn nên đất đai cằn cỗi. Chỉ đến khi các nhà khảo cổ Pháp tới đây khai quật và nghiên cứu, người ta mới được biết những ngôi tháp cổ Đồng Dương là di tích của một tu viện Phật giáo trong lòng kinh đô Indrapura của vương triều Indrapura do vua Indravarman II sáng lập năm 875.
Lão làng Trà Diếu cho biết thời trước chiến tranh, với cư dân địa phương, những gì thuộc về di tích Đồng Dương dù chỉ là viên gạch cũng linh thiêng, không ai dám động đến nếu không muốn bị thần linh “quở phạt”. Là vị thầy cúng cuối cùng chuyên giải trừ sự “quở phạt” của thần linh, ông Diếu còn nhớ rõ những tai họa mà dân làng gặp phải khi lấy gạch ở di tích về sử dụng. Nhưng không ngờ sau chiến tranh mọi sự đều đảo lộn bởi “bom đã phá sập tháp rồi, còn gì linh thiêng nữa mà sợ!” - ông Vụ chua chát. Khi đó người Đồng Dương thoải mái lấy gạch ở di tích về xây nhà, xây chuồng trại, kéo theo cư dân ở một số làng lân cận. Dân làng đã đào bới sập cả hai vòng thành nội, thành ngoại với nhiều đoạn còn khá bề thế và nhiều người còn tìm kiếm của báu dưới lòng đất.
Chúng tôi có dịp về thăm lại làng cổ Đồng Dương (xã Bình Định Bắc, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam) sau những cơn mưa gió bão bùng. Quang cảnh trống vắng, âm u bởi những hàng keo mọc ngang ngửa trên khu di tích, những viên gạch lăn lóc bên tháp Sáng xơ xác và nỗi buồn dòng tộc Trà - hậu duệ người Chăm sẽ làm bất cứ ai yêu những giá trị văn hóa Chăm cảm thấy chạnh lòng.
Phật viện Đông Nam Á nay còn đâu?
Năm 875, Vua Indravarman II của vương triều Indrapura đã cho xây dựng tại làng Đồng Dương một tu viện Phật giáo (Vihara) đồ sộ và tráng lệ lấy tên là Laksmindra – Lokesvara để làm nơi “trú ngụ” của Phật (Buddhapara).
Trải qua hơn 5 thế kỷ tồn tại (875 - 1471), Phật viện Đồng Dương trở thành trung tâm nghiên cứu, truyền bá Phật học của Đông Nam Á: năm 982, vua Lê Đại Hành sau đi bình Chiêm thắng lợi đã đưa về nước vị sư Thiên Trúc (Ấn Độ) đang hành đạo thuyết giảng tại đây; năm 1069, vua Lý Thánh Tông cất quân đi Chămpa đã bắt được Thiền sư Thảo Đường (Trung Quốc); năm 1301, sư tổ Trúc Lâm Yên Tử Trần Nhân Tông cùng hàng trăm tăng sĩ Đại Việt có 9 tháng lưu lại để tu đạo;... Đồng thời tạo khắc vào lịch sử những nét văn hóa đặc trưng của người Chăm, tháp Chàm.
Quy mô và tầm vóc của một Phật viện Đông Nam Á một thuở huy hoàng và tráng lệ như vậy nhưng nay lại có “số phận” hẩm hiu. Phật viện mặc dù đã được công nhận di tích cấp quốc gia nhưng không có người trông coi.
Đường đi đến khu Phật viện vốn đã gập ghềnh, vắng vẻ lại “lọt thỏm” giữa một khu rừng keo, bạc hà âm u, vắng vẻ. Phật viện chỉ còn một mảnh cổng tháp Sáng đứng xiêu vẹo, sụp phần đế, phải nêm vào những lớp gạch để giữ chân, cùng những thanh đà chống đỡ bằng gỗ tạm bợ, mỏng mảnh rất dễ dàng gãy mục bất cứ lúc nào.
Thấy chúng tôi đến, ông Trà Tấn Tôn (75 tuổi, tổ 6, thôn Đồng Dương, Trưởng tộc nhánh II tộc Trà ở Đồng Dương) vừa chỉ tay xuống khu vực tháp vừa than thở: “Phật viện Đồng Dương là xương máu mà bao đời tổ tiên tộc Trà xây dựng nên, nhưng lâu lắm rồi mới thấy người đến xem”.
Trước đây, khu Phật viện vẫn còn khá nguyên vẹn. Thời chống Mỹ, Đồng Dương trở thành khu căn cứ cách mạng nên chịu nhiều trận oanh tạc nặng nề của đế quốc Mỹ khiến nhiều tháp của Phật viện bị sụp đổ, hư hại... Nếu cứ để thực trạng như trước đây mà không có những biện pháp cấp thiết như hiện nay thì liệu mai đây con cháu có còn nhìn thấy di tích mà tổ tiên ngàn đời đã để lại hay không? Dấu tích hàng ngàn năm cũng sẽ bị sụp đổ trong nay mai mà thôi”.
Cũng qua nhiều đợt nghiên cứu, hội thảo, nhiều đoàn chuyên gia, khoa học trong và ngoài nước đã nhận định đây là di tích quý hiếm bậc nhất của nền văn hóa cổ Chăm-pa còn sót lại ở Việt Nam.
Ngày 21.9.2000, Bộ VHTT (nay là Bộ VH TT&DL) đã công nhận Phật viện Đồng Dương là di tích quốc gia. Ngày 17.8.2011, Bộ VH-TT&DL đã phối hợp với UBND tỉnh Quảng Nam tổ chức Hội thảo khoa học Quốc gia: “Bảo tồn, phát huy giá trị di tích Phật viện Đồng Dương” nhằm tìm ra phương án tối ưu để bảo tồn, phát huy giá trị di sản này trước nguy cơ “xóa sổ”.
Tiếp đó, ngày 6.4.2011, UBND tỉnh Quảng Nam đã ra quyết định “Trùng tu khẩn cấp tháp Sáng của Phật viện Đồng Dương” trước nguy cơ sụp đổ. Hiện nay, dự án đang được triển khai.
Chủ nhân vùng đất Thánh đô
Người Chăm ở Việt Nam mang 4 họ chính: Ung, Ma, Trà, Chế và phân bố khắp đồng bằng duyên hải miền Trung đến tận cùng đất Nam bộ ngày nay.
Tại vùng đất Đồng Dương, xứ Aravati (Quảng Nam), người Chăm mang họ Trà là chủ yếu. Tộc Trà còn ở lại Đồng Dương có lẽ để bảo vệ các công trình điêu khắc kiến trúc còn lại của tổ tiên như Tháp Sáng, tượng Bồ Tát, tượng La Hán, tượng Thiên Thần Hộ Pháp, tượng thần Siva, tượng Phật Thích Ca, trong đó Tượng Bồ Tát Ta Ra được khai quật năm 1978 là bức tượng đẹp nhất, là đỉnh cao của nền nghệ thuật Đông Nam Á…
Ngày nay, con cháu tộc Trà với những tập tục đời sống đặc trưng là dấu ấn văn hóa sống động sót lại của người Chăm từng kiến tạo trên mảnh đất Quảng Nam.
Theo gia phả tộc Trà, thuỷ tổ của tộc Trà là Trà Hoà Bố Để (có tài liệu viết là Trà Hoa Bồ Đề, là hậu duệ vua Chế Mân, con rể vua Chế A Nan), đức vua đời thứ 9 của vương triều Vijaya, đóng đô ở Đồ Bàn (Bình Định), được xem là vị tiền hiền đã khai sáng ra tộc Trà.
Tộc Trà là cư dân gốc Chiêm Thành (người Quảng quen gọi là người Hời). Qua thời gian, do chiến tranh, loạn lạc, thiên tai, dịch hoạn, không gian địa lý và hoàn cảnh lịch sử nên các thành viên trong dòng tộc Trà ngày càng sống xa nhau, không có điều kiện, cơ hội tìm về với cội nguồn. Nhiều phái, chi, nhánh của tộc Trà được thành lập ở mọi miền của Tổ quốc, và vươn xa ra ngoài biên giới, trong đó còn duy nhất 1 nhánh tộc Trà ở lại làng Đồng Dương – vùng đất gốc của dòng tộc.
Theo lời kể của các cụ thâm niên trong làng, tộc Trà Đồng Dương được hình thành cùng với sự phát triển hưng thịnh của Phật giáo ở khu đền tháp Đồng Dương (thế kỷ IX – XV).
Tộc Trà ngày càng mai một (?)
Hiện nay, tại làng Đồng Dương, số lượng người dân mang họ Trà rất khiêm tốn. Khoảng chưa đến 300 người so với hàng ngàn người đầu thế kỷ XX.
Ông Trà Tấn Tôn cho biết, theo những ghi chép trong gia phả tộc Trà lưu lại: “Thời trước, không chỉ riêng làng Đồng Dương mà còn cả vùng lân cận đều mang họ Trà. Số lượng rất đông, không đếm hết.
Khi ấy, con cháu họ Trà còn lưu giữ được những phong tục tập quán của người Chăm như múa apsara, thờ Phật, thờ thần thánh, cúng bái nơi tháp Thiêng (Phật viện), làm lúa khô, viết chữ Phạn, nói tiếng Chăm,… Truyền thống ấy đến đầu thế kỷ XX vẫn còn bảo lưu”.
Được biết, tộc Trà Đồng Dương hiện có khoảng 110 hộ (so với cả làng là 200 hộ). Trước đây, tộc có 4 nhánh, nay chỉ còn 3 (vì nhánh I không có người nối dõi nên đã nhập vào nhánh II). Nhánh I có 3 hộ do ông Trà Cung làm trưởng tộc (đã mất). Nhánh II có 45 hộ do ông Trà Tấn Tôn làm trưởng tộc. Nhánh III có 50 hộ do ông Trà Tấn Sắn (51 tuổi) làm trưởng tộc. Nhánh IV có 10 hộ do ông Trà Tấn Tư (61 tuổi) làm trưởng tộc. Và số còn lại sống rải rác các xã trong huyện, trong tỉnh và ngoài tỉnh chưa thống kê đầy đủ.
“Vào khoảng nửa cuối thế kỷ XIX, con cháu tộc Trà rất đông, chiếm số lượng nhiều nhất nước. Tộc có nhà thờ tộc, có phả hệ, có nhiều sắc phong, nhiều hiện vật Chăm cổ, nhưng không hiểu lý do gì lại bị thiêu huỷ sau một đêm. Từ đó đến nay, các vị cao niên trong làng đã qua đời, nhiều người không hiểu về gia tộc Trà để sưu tầm, nghiên cứu nên có sự nhận thức mơ hồ về dòng máu mà mình đang mang trong người”
Đến nay, vốn quý nhất mà cư dân nơi đây còn giữ được là ý thức tự giác tộc người, là dòng máu tộc Trà cùng với những bức tượng Chăm kiêu sa và tháp Sáng tráng lệ một thuở huy hoàng” – ông Trà Tấn Huệ (84 tuổi, tổ 6, thôn Đồng Dương) bộc bạch.
Cũng theo ông Trà Tấn Tôn cho biết, nhà thờ Tiền hiền tộc Trà đã trải qua nhiều lần tu sửa, thay đổi vị trí nên mất tính đất địa linh thiêng… May nhờ tộc Trà vẫn còn tổ tiên, Tháp Sáng, nhà thờ Tộc nên hằng năm, con cháu ở khắp mọi miền của Tổ quốc còn hướng về cội nguồn thông qua các cuộc hành hương về thăm tháp Sáng và nhà thờ Tiền hiền tộc Trà.
10 năm trở lại đây, dưới sự trợ giúp của tộc Trà Việt Nam, ông Trà Tấn Lợi (77 tuổi) và ông Trà Quang Thảng (76 tuổi) cùng trú ở xã Điện Thọ, huyện Điện Bàn, Quảng Nam, đã bỏ nhiều công sưu tầm, nghiên cứu về tộc Trà để cho xây dựng một nhà thờ tộc Trà ở Việt Nam, đặt ở địa phương. Cứ 3 năm một lần, vào ngày 23/03 (âm lịch), ngày giỗ tổ tộc Trà Việt Nam lại được cử hành long trọng tại nhà thờ tộc Trà ở Điện Thọ. Ngày nay, con cháu tộc Trà với những tập tục đời sống đặc trưng là dấu ấn văn hóa sống động sót lại của người Chăm từng kiến tạo trên mảnh đất Quảng Nam.
Theo gia phả tộc Trà, thuỷ tổ của tộc Trà là Trà Hoà Bố Để (có tài liệu viết là Trà Hoa Bồ Đề, là hậu duệ vua Chế Mân, con rể vua Chế A Nan), đức vua đời thứ 9 của vương triều Vijaya,đóng đô ở Đồ Bàn(Bình Định),được xem là vị tiền hiền đã khai sáng ra tộc Trà.
Tộc Trà là cư dân gốc Chiêm Thành (người Quảng quen gọi là người Hời). Qua thời gian, do chiến tranh, loạn lạc, thiên tai, dịch hoạn, không gian địa lý và hoàn cảnh lịch sử nên các thành viên trong dòng tộc Trà ngày càng sống xa nhau, không có điều kiện, cơ hội tìm về với cội nguồn. Nhiều phái, chi, nhánh của tộc Trà được thành lập ở mọi miền của Tổ quốc, và vươn xa ra ngoài biên giới, trong đó còn duy nhất 1 nhánh tộc Trà ở lại làng Đồng Dương – vùng đất gốc của dòng tộc.
Một sự trùng hợp có tính cơ duyên khi hội thảo khoa học “Bảo tồn, phát huy giá trị di tích Phật viện Đồng Dương” được tỉnh Quảng Nam tổ chức giữa tháng 8-2011 cũng là lúc đồng đất trong lưu vực Đồng Dương được đánh thức sau ngàn năm chịu cảnh khô hạn.Tu bổ, tôn tạo di tích Đồng Dương khi đã quá trễ tràng sẽ gặp muôn vàn khó khăn. Nhưng qua hội thảo, một số nhà khoa học cho rằng nếu kiên trì thực hiện từng bước vẫn có thể làm được, hơn thế nữa có thể tìm kiếm danh hiệu di sản văn hóa thế giới cho di tích này.
Xung quanh Đồng Dương
- Phật viện lớn nhất Đông Nam Á hồi thế kỷ thứ 9 (tọa lạc tại
thôn Đồng Dương, xã Bình Định Bắc, H.Thăng Bình, Quảng Nam), người dân địa
phương vẫn lưu truyền nhiều câu chuyện ly kỳ thậm chí huyễn hoặc. Nhiều
điều không thể lý giải được.
Tượng Bồ tát Laksmindra Lokesvara - bảo vật quốc gia đã bị bẻ 2 vật cầm tay - Ảnh: Hoàng Sơn |
Đó là pho tượng Bồ tát
Laksmindra Lokesvara (còn gọi là Bồ tát Tara) được phát hiện vào năm 1978 tại
khu di tích Phật viện Đồng Dương bởi những người rà tìm phế liệu.
Cả làng giữ tượng quý
Đến nay, sau nhiều năm
được công nhận là bảo vật quốc gia, pho tượng vẫn chưa được ghép nối hoàn chỉnh
do 2 phần hiện vật trên 2 tay vẫn chưa được trao trả.
Nhiều tài liệu chép rằng
năm 875 vua Indravarman đã cho xây dựng một tu viện Phật giáo và đền thờ vị bồ
tát bảo hộ cho vương triều là Laksmindra Lokesvara Svabhayada. Tên của kinh đô
mới là Indrapura được xây dựng trên mảnh đất của làng Đồng Dương ngày nay. Bức
tượng nữ bồ tát được tìm thấy gắn liền với sự kiện vua Indravarman xây Phật
viện và đền thờ. Mặc dù vào năm 1901, Louis Finot (một học giả người Pháp) và
năm 1902, nhà khảo cổ H.Parmentier đã khai quật và tìm thấy hàng trăm hiện vật
quý giá nhưng đến hơn 75 năm sau, tượng bồ tát mới được tìm thấy dưới độ sâu
khoảng 3 m.
Theo cuốn Thông
tin di sản Quảng Nam, bức tượng Bồ tát Laksmindra Lokesvara làm bằng
đồng thau, cao 114 cm, được tìm thấy ở gần khu đền thờ chính khu Phật viện.
Tượng đứng thẳng, tóc được búi lại thành hình chóp (jata), trên chóp chạm một
tượng Phật A Di Đà. Gương mặt bồ tát nghiêm nghị, hơi thô, cung lông mày giao
nhau, giữa trán có một urna (huệ nhãn) hình thoi... Theo đánh giá của nhà
nghiên cứu J.Boisselier, pho tượng này không chỉ là tượng đồng lớn nhất của
nghệ thuật Champa mà còn là một trong những tượng đồng quan trọng bậc nhất vùng
Đông Nam Á, với niên đại được xác định vào khoảng giữa thế kỷ thứ 9. Sau khi
phát hiện, bức tượng được người làng Đồng Dương đem về cất giấu rất kỹ, xem đó
như báu vật chung của cả làng. Tuy nhiên, vào năm 1981, hay tin trong làng đang
giữ bức tượng quý giá này, ngành chức năng tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng đã ra quyết
định thu hồi rồi đem đi trưng bày tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm, TP.Đà Nẵng cho
đến tận bây giờ. Tuy nhiên, sau khi thu giữ pho tượng, người Đồng Dương đã phản
đối vì nghĩ rằng cơ quan nhà nước đòi giữ bảo vật riêng của làng. Để người dân
an lòng, ngành chức năng đưa hàng chục người dân ra Đà Nẵng xem pho tượng đang
được trưng bày.
7 đời chủ tịch xã giữ
hiện vật
Trước khi bức tượng được
chuyển giao cho ngành chức năng, hơn 30 năm trước, 2 hiện vật trên hai tay pho
tượng vị bồ tát đã bị một người dân bẻ mất. Sau khi thu hồi được, cả hai hiện
vật này đã được UBND xã Bình Định Bắc lưu giữ và “chưa hẹn” ngày trao trả, ráp
nối hoàn thiện. Nhiều đời chủ tịch xã Bình Định Bắc lưu giữ 2 hiện vật và bàn
giao cho nhau, đưa vào cất tại một nơi bí mật. Họ xem đó như báu vật, đến mức
chủ tịch xã nào “rời ghế” cũng phải chuyển lại nguyên vẹn 2 hiện vật đó nếu
không muốn bị mang tiếng.
Cụ Trà Diếu (86 tuổi),
một trong những người đầu tiên sờ vào bức tượng kể lại rằng khi mới đào được
tượng, nhóm người đã khiêng về rồi báo cho dân làng biết. Hàng trăm người hiếu
kỳ kéo nhau đến xem. Bức tượng được tìm thấy ngay trong khu Phật viện ở tư thế
nằm ngửa. “Hai hiện vật trên tay là hai đóa sen, trong đó tay phải tượng cầm
sen búp, tay trái cầm sen nở. Một trong những người đào được đã bẻ mất 2 đóa
sen này. Sau đó, ông Huỳnh Thế Công (chủ tịch xã thời đó) đã tịch thu 2 đóa sen
rồi đem cất giữ đến nay”, cụ Diếu nói. Theo cụ Diếu, khi bức tượng vừa được đưa
về, cụ thấy trên chân mày và xung quanh đôi mắt có ánh kim vàng. Trước khi được
ngành chức năng chuyển đi, cụ Diếu đã dùng mũi rựa làm dấu vào bức tượng.
Ông Trà Tấn Túc, Chủ
tịch UBND xã Bình Định Bắc xác nhận hiện ông đang cất giữ 2 hiện vật nói trên ở
một nơi bí mật và an toàn. Trước những đoán định về 2 hiện vật, ông Túc cho
biết trên 2 tay tượng phật cầm một đóa sen và một quả cau trên chiếc đĩa được
đúc liền nhau.
Khi chúng tôi đặt vấn đề
được xem hiện vật, ông Túc lắc đầu từ chối ngay: “Tôi là đời chủ tịch thứ 7
tiếp nhận và phải cất giữ cẩn thận những hiện vật do các đời chủ tịch tiền nhiệm
trao lại. Tôi nhận chức chủ tịch xã và cũng nhận luôn nhiệm vụ giữ 2 hiện vật
này. Từ đó đến nay, cũng có nhiều người ngỏ ý muốn xem nhưng tôi không đồng ý.
Chỉ có một vị giáo sư từ Hà Nội vào đã được xem 2 hiện vật. Tuy nhiên, khi ông
này xin phép đúc sao y, tôi đã từ chối”.
Hỏi tại sao địa phương
không hiến tặng hoặc bàn giao 2 hiện vật để bức tượng được hoàn chỉnh, ông Túc
cho biết 2 hiện vật là báu vật và phải giữ lại Đồng Dương. “6 đời chủ tịch
không dám bàn giao, thì đời chủ tịch thứ 7 như tôi và sau này chắc cũng không
dám đâu”, ông Túc vẫn kiểu nói đầy bí ẩn.
Một thời huy hoàng của Phật viện - Ảnh: Hoàng Sơn chụp lại tư liệu |
Bia cổ bị trộm giữa ban
ngày
Khu di tích Phật viện
Đồng Dương dù đã trở thành phế tích từ lâu nhưng bên dưới lớp đất vẫn còn rất
nhiều hiện vật. Nhiều người dân trong làng thỉnh thoảng đào bới vẫn gặp những
tảng đá vỡ nát mà trước đây người Chăm đã dùng để xây thành tháp cổ. Và tấm văn
bia đang được UBND xã Bình Định Bắc gìn giữ là một trong những hiện vật nằm
trong số đó. Tuy nhiên, chỉ đến khi những tên trộm cổ vật lần mò vào địa phương
và bị bắt khi cố đem tấm bia này ra khỏi làng thì người Đồng Dương mới hay tấm bia này đã tồn tại trong Phật viện
từ nhiều năm qua mà họ không hề biết. “Một buổi sáng năm 2012, chúng tôi nhận
được tin báo có người lạ vào khu Phật viện để tìm kiếm vật gì đó. Vì địa phương
xảy ra nhiều vụ trộm cổ vật và hiện vật từ tháp nên chúng tôi đã huy động lực
lượng để chặn bắt chiếc xe vận chuyển. Đến trưa, khi chiếc xe định rời địa
phương thì chúng tôi chặn lại và thu giữ tang vật là tấm bia Chăm cổ này”, ông
Trà Tấn Phúc, Phó trưởng Công an xã Bình Định Bắc kể.
Theo ông Phúc, mặc dù là
người địa phương và cũng là hậu duệ người Chăm xưa nhưng chưa bao giờ ông biết
đến tấm bia này. Mãi đến khi nhóm người đánh cắp lén lút khai quật và bị bắt,
ông cũng như nhiều người dân mới biết. Ông Trà Tấn Túc, Chủ tịch UBND xã Bình
Định Bắc, cho biết thêm khi bị bắt giữ, tấm bia chỉ còn nửa trên, phần còn lại
ở đâu ông vẫn chưa rõ. “Tấm bia rất nặng, phải đến 8 người khiêng mới nổi. Sau
đó, chính tôi đã bỏ tiền túi ra, thuê người chuyển về để ở trụ sở ủy ban cho
đến bây giờ”, ông Túc nói.
Theo quan sát của PV,
tấm bia ký đã bị vỡ ở phần đỉnh với chiều ăn sâu vào thân bia khoảng 30 cm,
phần thân bên phải bị vỡ nặng nhất, ăn liền vào bia khoảng 40 cm. Phần bia có 3
mặt còn ký tự, trong đó mỗi mặt có 14 dòng ký tự còn rõ. Trên bề mặt bia có
nhiều vết xước được cho là bị đục đẽo. Phần bia được phát hiện cao khoảng 1,2
m, rộng khoảng 0,8 m, độ dày 25 - 30 cm.
Bí ẩn chờ giải mã
Bia ký được phát hiện
ngay tại khu Phật viện không nhiều. Nhiều người lớn tuổi tại Đồng Dương cho
biết, ngày xưa tại khu vực này có 2 tấm bia rất lớn nhưng sau này đã được
chuyển đi đâu không rõ. Sau khi tấm bia được đưa về UBND xã Bình Định Bắc,
nhiều người tộc Trà - hậu duệ của vương quốc Champa xưa - đã đến xem nhưng
không ai dịch được những ký tự khắc trên nó. Từ đó đến nay, thỉnh thoảng có
người đến xem rồi ra về. Những thông tin trên tấm bia vẫn là ẩn số.
Tấm văn bia bị sứt mẻ đang được lưu giữ tại UBND xã Bình Định Bắc - Ảnh: Hoàng Sơn |
Theo tài liệu chúng tôi
thu thập được, tại Đồng Dương, người Pháp đã tìm thấy và dịch 2 tấm bia có ký
hiệu là Đồng Dương 1 và Đồng Dương 2. Bia Đồng Dương 1 cao 1,6 m, rộng 0,97 m,
dày 0,28 m được đặt trên đế bia hình chữ nhật. Bia khắc chữ 4 mặt theo thứ tự
gồm 24, 23, 24 và 31 dòng. Bia được viết bằng tiếng Phạn dưới dạng thơ, trừ
phần mở đầu và 2 đoạn văn xuôi ở cuối mặt thứ 2 và thứ 4 của bia ký. Nội dung
nói đến việc vua Indravarman 2 lập bia, đề cập đến việc xây dựng đền thờ và
Phật viện, sự tôn kính đối với Bồ tát Laksmindra Lokesvara. Bên cạnh đó, bia
cũng nhắc đến việc vua Indravarman 2 là người sáng lập vương triều Indrapura và
phả hệ các vị vua. Bia Đồng Dương 2 lại có nội dung vinh danh công nương
Haradevi Rajakula (em gái của mẹ nhà vua Jaya Sinhavadman 1). Theo các nhà
nghiên cứu, 2 tấm bia này đều có niên đại cuối thế kỷ thứ 9, đã cung cấp nhiều
thông tin quý giá về di tích và nhiều vấn đề lịch sử văn hóa của vương quốc
Champa lừng lẫy một thời.
Các tài liệu chúng tôi
có được chủ yếu nhắc đến 2 tấm bia trên. Nhiều tham luận tại hội thảo quy mô
với chủ đề về Đồng Dương được UBND tỉnh Quảng Nam, tổ chức tháng 8.2011, cũng
chưa hề nhắc đến có tấm văn bia thứ 3 tại Đồng Dương. Trong cuốn Văn bia Chăm ở
miền Trung do Trung tâm quản lý di tích và thắng cảnh Quảng Nam xuất bản vào
tháng 10.2014 cũng chưa đề cập đến tấm văn bia mới phát hiện gần đây. Ông Phan
Văn Cẩm, Giám đốc trung tâm, cho biết cuốn sách là tập hợp 134 bản dịch văn bia
Chăm từ Quảng Bình đến Ninh Thuận. “Tất cả bia ký Chăm đều đã được dịch hết.
Trong đó nội dung chính (kể cả ở Đồng Dương) các văn bia là ước nguyện của
người làm bia, niên đại tạo bia và là một bài cúng”, ông Cẩm nói thêm.
Nhiều người làng Đồng
Dương cho biết tấm bia đang đặt tại trụ sở mới được phát hiện từ dưới đất. Theo
ông Trà Tấn Túc, vào năm 2013 có một chuyên gia nghiên cứu về văn hóa Chăm tìm về xã và sao y các ký tự trên văn bia.
Tuy nhiên, sau đó người này không cho biết nội dung trên bia cũng như niên đại.
Bia này có phải là bia Đồng Dương 2 hay là một tấm bia mới được tìm thấy vẫn
chưa có lời giải.
Người làng Đồng Dương tin rằng Phật viện và ao Vuông được nối với nhau bởi một thủy đạo chạy ngầm dưới lòng đất - Ảnh: Hoàng Sơn chụp lại tư liệu |
Đã có nhiều đề tài
nghiên cứu về Phật viện Đồng Dương nhưng nói về thủy đạo bí mật thì vẫn chưa ai
nhắc đến, hoặc có đề cập thì cũng chỉ vài dòng ngắn gọn. Theo nhiều người dân
tộc Trà - hậu duệ của người Chăm tại Đồng Dương thì ngoài những kiến trúc bề
nổi được ghi nhận là kinh thành Indrapura, khu Phật viện thì bên dưới lòng đất
còn có thủy đạo bí mật.
Thủy đạo dài 1 km
Cụ Trà Diếu (86 tuổi)
cho biết từng nghe cha ông kể về thủy đạo này nhiều lần. “Đến thế hệ chúng tôi,
từ khu tháp cổ về đến ao Vuông có một con đường trực chỉ được đắp nổi. Và thủy
đạo dài 1 km chạy ngầm dưới lòng đất nằm bên dưới con đường này, nối tháp Giếng
với ao Vuông”, cụ Diếu nói như đinh đóng cột.
Theo lời kể của nhiều
người uy tín trong làng, ngày xưa, nếu thả một trái bưởi tại tháp Giếng lúc
giữa trưa thì đến khoảng đầu giờ chiều, trái bưởi này nổi lên ở ao Vuông. Ông
Trà Tấn Thành, Phó bí thư Đảng ủy xã Bình Định Bắc, cho hay ông đã nghe nhiều
người già kể về mật đạo này nhưng cơ hội kiểm chứng không còn do Phật viện nay
chỉ là phế tích. Ông Thành cho biết thêm, ao Vuông ngày nay nằm phía sau lưng
trụ sở UBND xã và đã được người dân trồng sen. Theo nhiều tài liệu về Đồng
Dương, ao Vuông được hình thành do người Chăm xưa đào để lấy đất đúc gạch phục
vụ việc xây tháp và thành trì. Ao này rất sâu và có diện tích khoảng 100 x 180
m, được bao bọc trong một thành đất khoảng 300 x 250 m. Những dòng đề cập gọn
trong bài Tổng quan về Phật viện Đồng Dương và suy nghĩ về định hướng,
giải pháp bảo tồn của TS Trần Bá Việt (Viện Khoa học công nghệ xây
dựng, Bộ Xây dựng) tại hội thảo được tổ chức tại Quảng Nam vào tháng 8.2011 ghi
nhận: “Từ Phật viện có một con đường cổ dạng bờ lũy chạy về hướng đông, băng
qua một cánh đồng và mép của một quả đồi nhỏ thì đến cửa phía tây của khu hoàng
cung - trung tâm chính trị của Indrapura. Khu vực hoàng cung kinh đô Indrapura
chính là khu vực ao Vuông”. Theo TS Việt, trong thành nội Phật viện có một ngọn
tháp đặc biệt gọi là tháp Giếng. Tháp này nằm phía góc tây nam của thành nội,
nguyên trong tháp có một cái giếng mà ngày nay đã bị vùi lấp. TS Việt cũng ghi
chép: theo lời truyền miệng, tháp Giếng ăn thông với khu vực ao
Vuông.
Giải mã công năng thủy
đạo
Cụ Trà Diếu tin rằng,
thủy đạo bí mật là một lối thoát hiểm dành cho hoàng cung khi có chiến sự. Cụ
Diếu đã lấy những thủy đạo và đường hầm trong chiến tranh để liên tưởng đến
việc ngày xưa vương triều Indrapura cũng bí mật xây dựng thủy đạo để “bảo vệ và
phòng thủ như một con đường mật cho đánh giặc”. Trong bài viết của mình, TS
Trần Bá Việt cũng đề cập đến chuyện này: “Đây có thể là con đường thoát hiểm
của hoàng tộc hoặc có thể là một kỹ thuật cấp nước trong giếng cổ trong hệ
thống giếng của người Chăm xưa. Đó cũng là một hướng giải thích cho cái giếng
không vơi không đầy trên đỉnh đồi nhà thờ Đức mẹ Trà Kiệu”.
Theo TS Việt, có thể
người Chăm xưa đã biết áp dụng nguyên lý hai bình thông nhau. Với kỹ thuật gốm
phát triển, họ đúc những ống gốm dẫn nước đặt ngầm trong lòng đất. Những ống
này sẽ lấy nước từ khu vực nước có chất lượng cao và có cao trình bằng với cao
trình nước mà họ muốn khống chế. “Điều này giải thích tại sao nước giếng Chăm
cổ rất sạch trong khi nước giếng đào trong khu vực bị nhiễm phèn nặng hoặc mực
nước của họ nằm trên lưng chừng đỉnh đồi mà không vơi không đầy như có ma lực”,
TS Việt viết. Người làng Đồng Dương cho hay, tương truyền nước trong tháp Giếng
quanh năm mát trong và không bao giờ cạn dù có hạn hán cỡ nào. Cho nên hướng
giải thích của TS Việt được phần đông tán thành. Cùng quan điểm này, ông Phan
Văn Cẩm, Giám đốc Trung tâm quản lý di tích và danh thắng Quảng Nam, cho hay
miệng ống là cái giếng nên khi thả trái bưởi thì sẽ trôi ra hồ theo nguyên tắc
bình thông nhau. Vì vậy, theo ông Cẩm, đường hầm là hoàn toàn có thể có và tồn
tại theo nguyên tắc bình thông nhau. Nhiều người làng Đồng Dương cho biết thêm,
vào khoảng năm 80 thế kỷ trước, một nhóm người trong làng đã tát cạn ao Vuông.
Nhưng vì lớp bùn đất bồi lấp quá dày nên không tìm thấy miệng thủy đạo. Ông Trà
Tấn Túc, Chủ tịch UBND xã Bình Định Bắc, nói: “Bây giờ tại miệng tháp Giếng mọc
lên một cây cóc nên thủy đạo vẫn là ẩn số. Nếu muốn chứng minh thủy đạo có thật
và có giá trị gì, cơ quan chức năng cần khai quật sớm và phải làm hoàn chỉnh,
có hệ thống để tìm hiểu các giá trị từ Phật viện này…”.
Dấu tích của những cuộc săn tìm kho báu vàng hời để lại ngày nay là những bãi đất đá nham nhở trong Phật viện Đồng Dương - Ảnh: Hoàng Sơn |
Ẩn số kho báu trong lòng
đất
Các cụ già tại làng Đồng
Dương (H.Thăng Bình, Quảng Nam) ngày nay vẫn thường kể cho con cháu nghe câu
chuyện về một kho báu được người Chăm pa tiền nhân sinh sống trên mảnh đất này
chôn giấu cách đây cả ngàn năm.
Chúng tôi về Phật viện,
hỏi những người dân về kho vàng thì gặp ngay những ánh mắt hồ nghi. Cụ Trà Tấn
Huệ (84 tuổi) kể rằng, thuở nhỏ cụ thường được những người lớn nói về một kho
vàng hời được chôn cách khu tháp cổ khoảng 500 m đường chim bay, nhưng không
nhắc đến phương hướng. Kho báu này có cửa hẳn hoi và phải tìm đúng dấu hiệu
được người xưa để lại mới có cơ may tiếp cận. “Như ông nội tôi khẳng định thì
kho báu là có thật và được giấu rất kỹ. Nhưng sau này, nhiều người trong và
ngoài địa phương đổ về tìm kiếm cả trong lẫn ngoài địa hạt khu Phật viện khiến
tôi tin rằng đây chỉ là một câu chuyện truyền thuyết mà thôi…”, cụ Huệ nói.
Khác với cụ Huệ, cụ Trà
Diếu (86 tuổi) lại tin rằng kho báu vàng hời là có thật. Cụ Diếu khẳng định qua
những câu chuyện kể và những “chứng cứ” cụ thu thập được từ thực tế thì kho báu
chỉ nằm lân cận khu Phật viện. Con trai cụ Diếu là ông Trà Tấn Thanh (50 tuổi)
cho biết đã nhiều lần ông nghe cha nhắc đến chuyện kho vàng hời nhưng gặng hỏi
thì cụ không nói. “Tôi cùng nhiều anh em trong làng từng tham gia tìm kho báu
nhưng bất thành. Bởi dấu vết quá mơ hồ, có chăng chỉ là những hạt vàng cám li
ti tìm được ở nơi cách tháp cổ đến hơn 1 km”, ông Thanh nói. Khi chúng tôi tìm
hiểu về kho báu vàng hời, cụ Díu ngồi bên cạnh không muốn góp chuyện và có ý
lảng đi vì lo ngại người lạ lân la tìm manh mối. “Đã có nhiều người đến hỏi tôi
về chuyện kho báu nhưng tôi không nói. Tôi có thể vẽ lại các ngọn tháp, cả sơ
đồ để tìm kiếm nhưng sẽ truyền lại cho người mà tôi tin cẩn nhất”, cụ Díu tỏ vẻ
bí hiểm.
Kho vàng hời đến nay vẫn
là ẩn số. Có người săn tìm đã lâu, nản chí bỏ cuộc, có người tiếp tục nghe
ngóng. Từ sau năm 1975, qua nhiều cuộc tìm kiếm bất thành, những nhóm tìm vàng
đã tan rã về quê. Tuy vậy, vào những năm 1980, khi những người cố tìm kho báu
phát hiện nhiều vàng cám dọc các sông Ly Ly, suối Ruột Gà… thì “cơn lốc” tìm
vàng quay lại. Từ Phật viện về 3 hướng: đông, nam, bắc đâu đâu cũng có người
đào xới, lật tung từng mét đất.
Truy tìm “cây duối
trắng”
Việc đầu tiên những
người tìm kho báu phải làm được đó là tìm “cây duối trắng” - dấu hiệu nhận biết
kho vàng. Từng mảnh đất xung quanh Phật viện Đồng Dương khoảng 500 m lại được
đào lên để tìm tung tích loại cây có cái tên kỳ lạ này. Đặc biệt, khu vực núi
Ngang cách các tháp cổ khoảng 800 m về phía đông bị những người săn tìm kho báu
quần thảo suốt ngày đêm. Nhiều người làng Đồng Dương cho hay tại vùng núi này,
đã tìm thấy vết tích của những hầm lò được xây dựng bằng gạch Chăm và thu được
khá nhiều vàng cám với các hình thù khác nhau. Do đó, theo phỏng đoán đây là
khu vực ngày xưa người Chăm đã dùng để luyện vàng.
Cụ Trà Tấn Huệ tiếp lời:
“Tại Phật viện, nhiều người cũng đào bới suốt ngày. Có 2 người trong làng đã
đào được những tấm vàng hời dát thành lá… Suốt thời gian sau đó, tôi nghe đồn
có người trúng vàng hời bỏ trong hũ”. Còn ông Trà Tấn Thanh cho biết vào những
năm 1990, ông cùng nhóm thanh niên trong làng lần tìm kho báu về phía bắc của
tháp khoảng 500 m. “Trong nhiều tháng, chúng tôi không tìm được gì đáng giá.
Nhưng sau này tôi đi tìm vàng tại khu đất gần nhà thì phát hiện một que vàng có
hình thù như cây kim khâu. Cây kim này không có trôn, khi bẻ đôi thì thấy bên
trong có một chất kim màu trắng. Đem đến tiệm vàng, chủ tiệm bảo đây là vàng
hời, khoảng 7 tuổi. Thời đó, tôi bán cây kim và mua được cái áo ấm…”, ông Thanh
nhớ lại. Ông Thanh cho biết thêm nhiều người khi hay tin về dấu mốc của kho
vàng hời là “cây duối trắng” đã chuyển hướng, không tìm vàng nữa mà cố tìm thứ
cây kỳ lạ này. “Loại cây này trông như thế nào?”, tôi hỏi. Ông Thanh cho hay
không ai thấy “cây duối trắng” ra làm sao vì nó không mọc trong vùng Đồng
Dương. “Nhưng theo mô tả truyền miệng thì cây này có thân, lá, rễ đều màu
trắng”, ông Thanh nói.
Theo UBND xã Bình Định
Bắc, cuộc săn lùng ráo riết vàng hời và kho báu dai dẳng đến năm 2007. Nhưng
đến nay vẫn có người nuôi hy vọng và lén lút vào Phật viện để tiếp tục đào bới.
Cụ Huệ kể thêm khi không tìm thấy kho vàng đâu, nhiều người lại chuyển sang tìm
kiếm những ngôi mộ Chăm hình mu rùa để đào bới vì tin rằng trong đó có vàng dát
lá.
Đà Nẵng 09/09/2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét