Thanh Trà
LƯỢC SỬ NỀN VĂN
MINH CHAMPA
Ảnh bìa: Dennis Holloway
LỜI TỰA
Vương quốc Champa trải
dài từ nam đèo Ngang (tỉnh Quảng Bình) cho đến bờ bắc sông Đồng Nai (tỉnh Bình
Thuận). Trong quá trình hình thành và phát triển, văn hóa Champa đã để lại dấu
ấn không chỉ ở miền Trung, Tây Nguyên, mà còn lan tỏa sang một số quốc gia khác
như Trung Quốc, Nhật Bản, Malaysia, Campuchia, Thái Lan. Đây là nền văn minh
phát triển rực rỡ nhất Đông Nam Á trong suốt gần 18 thế kỷ.
Văn minh Champa biểu
hiện phong phú trên nhiều lĩnh vực, từ văn hóa vật chất với những đền tháp,
thành quách, bia ký, điêu khắc, các trung tâm sản xuất gốm...cho đến văn hóa
tinh thần như tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán, chữ viết, nghề truyền
thống, nghệ thuật biểu diễn, qui tắc ứng xử...Người Việt đã tiếp thu từ nền văn
minh này nhiều di sản quý của người Chăm như các giống lúa Chăm, chế tác vàng,
hệ thống thủy lợi, nước mắm, ghe bầu, tín ngưỡng thờ cá Ông...
Bằng tâm huyết của một
người con dân tộc Chăm, tác giả Trà Thanh Toàn, trong suốt quá trình biên soạn gần 16 năm (1996-2012), đã dành đến
12 năm để đi đến nhiều địa phương khảo sát thực địa, tham gia vào các hoạt động
văn hóa của dân tộc mình để hoàn thành cuốn sách này. Cùng với đó là việc tham
khảo nguồn tài liệu khá phong phú trong và ngoài nước với các tài liệu lịch sử,
khảo cổ, văn hóa, tôn giáo như Minh sử, Tống hội yếu tập cao, Thủy
kinh chú, Cửu phiên chí, Cựu đường thư, Tân đường thư, Chu phiên chí, Văn hiến
thông khảo, Lương thư, Hoàng Lê nhất thống chí, Việt điện u linh tập, An Nam kỷ
yếu…cho đến các
công trình của các nhà nghiên cứu lừng danh như Coèdes, Aurousseau, Boisselier, Dharma, Finot, Garpardone, Hall, Maspero, Parmentier, Pelliot, Stein, Taylor, Hà Văn
Tấn...Tư liệu của tộc họ Trà ở Kelantan (Malaysia) cũng được tác giả khai thác
tối đa trong sách.
Cuốn sách được cấu trúc thành 4 phần: Cội nguồn của tiến trình lịch sử Champa, Lịch sử Champa qua các triều
vương, Những di sản Champa, Nguyên nhân Vương quốc Champa suy vong. Với
cách tiếp cận lịch đại và cấu trúc, cuốn sách đã dựng lại quá trình phát triển
của văn minh Champa trong quá khứ và diễn biến của nó cho đến tận ngày nay. Đó
là lịch sử Champa được nhìn từ khảo cổ, văn tự, truyền thuyết, lễ hội, cơ cấu
tổ chức quốc gia. Các vương triều trong lịch sử Champa được tác giả trình bày
một cách tường tận, đầy đủ qua nhiều nguồn sử liệu giúp cho bạn đọc có cái nhìn
đa chiều về tiến trình lịch sử của Vương quốc Champa, là cơ sở để nắm rõ sự
phát triển của văn minh Champa. Bằng việc giới thiệu các đền tháp Champa trên
dải đất miền Trung, kiến trúc thành Vijaya, Phật viện Đồng Dương, các bảo vật
quốc gia (tượng cổ Kosa, tượng đồng Avalokitesvara), văn hóa ẩm thực...người
đọc sẽ thấy những giá trị của một nền văn minh còn bỏ ngõ với những đỉnh cao
của nó trong văn minh khu vực Đông Nam Á. Nguyên nhân suy vong của Vương quốc
Champa là phần nội dung lý thú trong cuốn sách này với những kiến giải của tác
giả, từ những mâu thuẫn nội tại trong quản lý đất nước cho đến bối cảnh lịch sử trong khu vực, những cuộc
đụng đầu giữa các thế lực chính trị dẫn đến sự suy tàn của Champa. Tác giả đã
mạnh dạn đưa ra những góc nhìn riêng trên cơ sở các nguồn tư liệu thuyết phục
để trình bày sự thật khách quan.Tôi đánh giá cao cách làm việc của tác giả với
một tinh thần nghiêm túc, cầu thị và có dũng khí, để mọi người có ‘‘cái nhìn thực chất về bản sắc và văn hóa của nền văn minh
Champa’’.
Một vài điểm còn hạn chế trong cuốn sách là cách trích dẫn chưa khoa học, khiến
người đọc khó theo dõi, cũng như kiểm chứng lại nguồn tài liệu. Bố cục ở một số
phần sắp xếp còn chưa hợp lý, hình ảnh minh họa chưa phong phú.
Nhưng với những nỗ lực
đặc biệt của một tác giả trẻ, sự kiên trì theo đuổi trong một thời gian dài
biên soạn, tác giả đã góp một viên gạch hữu ích trong việc tìm về một nền văn
minh trong quá khứ những vẫn còn diễn ra trong dòng chảy của lịch sử nhân loại,
không phải chỉ bằng bản thể của dòng tộc, mà còn bằng công phu lao động khoa
học nghiêm túc. Tôi xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc Lược sử văn minh Champa
của Trà Thanh Toàn, một cuốn sách được biên soạn hết sức công phu, có giá trị
nghiên cứu.
Nhà nghiên cứu : Nguyễn Thanh Lợi
Thay lời cảm tạ
Tập sách nhỏ này, được
chọn lọc tham khảo từ một phần trong gia phả họ Trà của người Chăm ở huyện Điện
Bàn, tỉnh Quảng Nam. Từ các tư liệu của nhà nghiên cứu, nhà khảo cổ học trong
và ngoài nước có uy tín. Tôi thiết nghĩ, cuốn sách này, làm sáng tỏ thêm về văn
hóa Champa trong quá khứ đã bị mai một. Nhưng sẽ có thiếu xót, hoặc có sai lệch
theo lịch sử rất nhiều, mong mọi người đóng góp ý kiến để xây dựng và được những
người quan tâm lượng thứ.
Tôi xin thành tâm bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến tất cả các vị, cha mẹ, bác, cô, chú, anh, em cùng bạn bè và nhất là cộng đồng champa kelantan malaysia đã cung cấp dữ liệu, động viên, giúp đỡ, xây dựng, góp ý cho tôi có động lực hoàn thành tác phẩm này.
Tôi xin thành tâm bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến tất cả các vị, cha mẹ, bác, cô, chú, anh, em cùng bạn bè và nhất là cộng đồng champa kelantan malaysia đã cung cấp dữ liệu, động viên, giúp đỡ, xây dựng, góp ý cho tôi có động lực hoàn thành tác phẩm này.
Tp.HCM 12/12/2012
Thanh Trà
Mở đầu
Trong quá khứ, trên dãy đất Việt Nam này có sự tồn tại một nền văn minh:
Vương quốc Champa. Vương quốc Champa có lãnh thổ trải dài từ mũi Hoành sơn phía
bắc, nam giáp Đồng Nai, tây giáp nam Lào, đông giáp biển Đông, thuộc miền Trung
ngày nay. Hầu hết lãnh thổ trải dài theo dãy Trường sơn và biển Đông. Có những
cánh đồng nhỏ nằm dọc theo những con sông đổ ra biển. Phía tây dãy trường sơn
là những bình nguyên Tây nguyên rộng lớn. Khí hậu có hai mùa mưa và nắng rỏ
rệt. Vương quốc Champa chuyên canh cây lúa, đậu, ngô, mía… dọc theo những con
sông từ Tây nguyên đổ ra biển. Vùng Tây nguyên có những tài nguyên quí giá như:
trầm hương, mun, tre… Ngoài ra Tây nguyên Champa còn cung cấp nhiều khoáng sản
quí như: vàng, bạc, đồng, sắt. Động vật gồm: voi, tê giác, sư tử, hưu trắng…nhiều
vô kể. Vương quốc Champa hiện tại tuy nó đã được sát nhập vào nước Việt Nam, nhưng
chúng ta không thể phủ nhận sự ảnh hưởng của nền văn hóa Champa, trong quá khứ cũng
như hiện tại, đối với tổng thể văn hóa 54 dân tộc anh em Việt Nam. Nhất là văn
hóa tộc người Champa có ảnh hưởng rất lớn. Văn hóa Champa đã phát triển một nền
văn minh rực rở, bậc nhất Đông Nam Á suốt gần 18 thế kỷ. Bởi quá trình tồn tại,
định hình lịch sử và văn hóa phát
triển, có bề dày đáng kể trên bốn ngàn năm (Từ người Champa cổ Bàu Trá thời đại
đá, văn hóa Sa Huỳnh thời đại kim khí, cho đến ngày hôm nay). Vì muốn thảo thêm vài nét vẽ cho bức tranh lịch sử, văn
hóa nền văn minh Champa còn bỏ ngỏ, nên tôi một người con trong dòng tộc Champa
mạo muội đặt vấn đề cho đề tài này. Tôi không muốn phê phán hiện tại và quá
khứ, tôi chỉ muốn người và người nhìn thực chất về bản sắc và văn hóa của nền
văn minh Champa, giờ đã chôn chặc vào lòng đất khô cằn, bão lũ miền Trung đầy
nhân bản và nhân văn. Trải dài hàng ngàn năm lịch sử, thăng trầm trong vinh
quang, khổ đau, tủi hờn rồi thất bại. Thế là họ bắt đầu hình thành sự khác
biệt, dù rằng họ cùng một nguồn cội, có chung một dòng máu.
Thời gian thấm thoát trôi, đã qua rồi cái thời gánh con vượt dải Trường
Sơn, cái thời dong buồm thách thức con sóng dữ của biển cả để đi tránh cơn binh
đao. Giờ đây họ đã được yên vui sống trên mảnh đất được gọi nôm na là quê hương
thứ hai , mặc dù có những nơi họ sống trước kia từng là làng quê, đất tổ, là
đất nước của họ. Còn gì xót lại ở họ ngoài dòng máu đỏ và chút ít ngữ vựng
trong ngôn từ. Các tôn giáo lớn trong khu vực du nhập ngày càng mạnh, làm đảo
lộn trật tự xã hội Champa có từ lâu đời. Xung đột giữa ấn giáo, đạo hồi và nho
giáo lên đến đỉnh điểm. Phân biệt tôn giáo đã làm mất đi tính tự hào dân tộc,
mất đi sự đoàn kết thiết yếu để bảo vệ dân tộc Champa. Sao con người không quan
tâm đến nó để kéo lại gần sau hàng thế kỉ xa cách. Xin đừng đổ thừa tôn giáo, tính
phân biệt luôn không chấp nhận những gì hơi xa lạ đối với mình. Một cộng đồng tan
rã, bị dẫm nát qua thời gian theo dòng lịch sử đau buồn, cần lắm những bàn tay
xoa dịu để chữa lành vết thương bao năm tháng…
Từ nhỏ, nhìn chung
quanh là những tháp Chăm u sầu, lở lói với thời gian, lòng tôi luôn hiếu kì về
vương quốc Champa, hay là bản thể con cháu họ Trà Champa. Sự hiếu kì pha lẫn lảng
mạn và nuối tiếc một nền văn minh đã tàn lụi, có lẻ một phần bị ảnh hưởng từ
tập thơ “Điêu tàn” của Chế Lan Viên? Vì đây là vấn đề lớn trong khoa học, tôi
không đủ khả năng xây dựng lại diện mạo của nó, nên chỉ cố gắng phác họa vài
nét mà thôi. Tôi nghĩ rằng đề tài này sẽ góp thêm một hạt cát vào bể cát tri
thức mênh mông của loài người hiện tại trong quá trình tìm hiểu, phân tích, phác
thảo bức tranh nền văn văn minh tộc người Champa Malayo Polynésien, trong tổng
thể nền văn hóa dân tộc Việt Nam một cách khoa học và nhân văn. Đặc biệt việc
nghiên cứu giá trị của một nền văn minh bị bỏ ngỏ, mai một rất nhiều trong hệ
thống văn hóa, thì việc tìm hiểu dân tộc người Champa chính là điều cần yếu, có
ý nghĩa cấp thiết góp phần làm rõ hơn bản sắc văn hóa Việt Nam, đông nam á
Malayo Polynésien, để chúng ta có phương pháp bảo tồn, phát huy giá trị của nó trong
công cuộc xây dựng nền văn hóa Việt Nam và đông nam á ngày nay. Qui luật của
lịch sử nhân loại là sự sinh tồn và biến đổi một cách biến chuyển liên tục. Sự sụp
đổ hoàn toàn của Vương Quốc Champa vào năm 1832, cho dù bất cứ nguyên nhân nào,
cũng đều nằm trong qui luật tất yếu của lịch sử. Tuy nhiên, nếu một dân tộc đã
có một lịch sử, cho dù quốc gia đó không còn nữa, lịch sử dân tộc đó vẫn luôn
luôn còn hiện diện trong tiến trình của lịch sử nhân loại, ít ra vẫn còn trong
ký ức của dân tộc đó lưu truyền từ đời này sang đời khác và mãi mãi cho đến tận
cùng… của lịch sử nhân loại. Nếu một dân tộc đã có một lịch sử, một nền văn
minh đặc thù, đương nhiên đã có một cội nguồn. Nói đến cội nguồn là nói đến
những gì rất xa và cũng rất gần. Rất xa vì cội nguồn đã có từ chốn hồng hoang, từ
trong mịt mờ của tiền sử. Rất gần vì cội nguồn luôn luôn có trong tâm tưởng của
bất cứ ai còn biết nhớ đến tổ tiên, biết yêu thương những người cùng chung
huyết thống của chủng tộc. Nói huyết thống vì người ta có thể thay đổi tư duy, có
thể thay đổi hoàn cảnh, có thể thay đổi đức tin, nhưng không thể thay đổi được
dòng máu đồng chủng đang luân lưu chảy trong khắp châu thân của mỗi một con
người. Đề tài này chắc chắn rằng sẽ còn nhiều sai xót và không ít người không
đồng ý, vì lịch sử đã qua là “bất di, bất dịch”, trong khi sử liệu về vương
quốc Champa quá ít và đang dần chôn vùi theo thời gian. Tác
phẩm lược sử nền văn minh Champa ra đời được viết trong gần 16 năm, từ năm 1996
đến 2012 do tìm hiểu nhiều nguồn sử liệu, tài liệu khảo cổ, thực địa tập quán
văn hóa, tham khảo, khảo sát liên quan quá nhiều nghành, nhiều tôn giáo. Trong
khi sử liệu champa còn lại quá ít. Do đó cũng không cho phép ghi lại những tài
liệu trích dẫn một cách tỉ mỉ. Bù lại những trích dẫn quan trọng điều có ghi
ngay trong bài viết. Tôi mong rằng mọi độc giả khi đọc sẽ bỏ qua phần này. Nếu có gì thiếu xót
trong bài viết tôi rất mong mọi người rộng lòng tha thứ. Tôi
mong rằng nhiều người sẽ cùng đóng góp và xây dựng cho hoàn chỉnh thêm.
Đồ bàn 20/12/2012
Thanh Trà
A-CỘI NGUỒN CỦA TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ
CHAMPA
1-Khái quát:
Từ trong mịt mờ của
tiền sử, khi những thành tựu tiên tiến khoa học hôm nay chưa giúp được nhân
loại vén lên bức màn tiến hóa của vũ trụ, chưa giúp nhân loại hiểu biết hết về
xuất xứ của mình, từ đâu mà ra, từ đâu mà đến. Con người thường nêu lên sự hiện
hữu của mình trên hành tinh này bằng những truyền thuyết. Mà truyền thuyết là
cái bóng của sự thật, được dân gian tưởng tượng và thêu dệt bằng những chi tiết
ly kỳ, làm cho truyền thuyết trở nên hoang đường. Do đó trong truyền thuyết có
sự hoang đường và cũng có “bóng dáng” của sự thật. Nói đến truyền thuyết của
giai thoại, của lịch sử, là nói đến bóng dáng của giai thoại, đến bóng dáng của
lịch sử. Giữa lịch sử và truyền thuyết vẫn có liên quan mật thiết với nhau như
hình với bóng, mà hình nào thì bóng đó. Ví dụ như dân tộc Champa theo chế độ
mẫu hệ từ xã hội nguyên thủy cho đến ngày nay vẫn còn. Trong khi đó theo truyền
thuyết, người mẹ xứ sở là Nữ Thần Po Nưgar.
Do đó cái hình là
chế độ mẫu hệ, còn cái bóng là Nữ Thần Po Inư Nưgar theo truyền thuyết. Ðể
trình bày câu hỏi: Ai sanh ra tổ tiên Champa và họ từ đâu đến? Thật là vấn đề
nan giải, ngoài sự hiểu biết và cách nghĩ của chính hậu duệ người Champa? Vì
tâm có hướng về cội nguồn, thì nguồn sẽ có trong tâm.
Người Champa quan
niệm do trời và đất là Thủy tổ sinh ra tổ tiên của họ. Trời (Dyaus) ở ngôi Cha,
mang dương tính. Ðất (tanưh amaik) ở ngôi Mẹ mang âm tính. Sự tác hợp giữa Trời
và Ðất là sự giao hòa khí dương và khí âm đã tạo thành vạn vật và sản sinh ra
thủy tổ dân tộc Champa. Do đó dân tộc Champa chấp nhận thuyết âm dương, sự kiện
này cũng phù hợp với biểu tượng Linga (dương tính), Yoni (âm tính) . Thần Shiva
được thờ tại các đền Tháp Champa. Đây là quan niệm chung cho các chủng tộc trên
thế giới.
Nguồn gốc tổ tiên Champa:
Từ kết quả sự khai quật của các nhà khảo cổ đã khám phá nền văn hóa Sa Huỳnh
trên phần đất Vương Quốc Champa cổ cũng đã xác định được tổ tiên Champa là cư
dân địa phương trên vùng đất này ngay từ thời tiền sử. Công trình khai quật này
được diễn tiến như sau: Từ năm 1909 Vinet một viên chức người Pháp tình cờ phát
hiện được (tại Ðức Phổ – Quảng Ngãi), tiếp theo đó từ 1923-1951 như Labarre,
Henry Parmentier và nhà Nữ Tiền Sử học tất cả là người Pháp lần lượt đến Sa
Huỳnh và những địa điểm khác nhau thuộc lãnh địa Vương Quốc Champa cổ trước đây,
từ Quảng Bình đến Đồng nai để khai quật khám phá được nhiều mộ Chum khác. Mộ
chum hay là kho chum cao chừng 0m,80 làm bằng đất nung, trong kho Chum chứa
những dụng cụ cần thiết để làm vườn, phá rẩy, chặt cây, nấu nướng như: nồi đất,
rựa v.v.. và những vật dụng khác. Sau năm 1951 vì chiến tranh Việt Nam, nên
công việc khảo cổ bị khựng lại cho đến sau năm 1975, công tác khảo cổ được tiếp
tục với người Tây Phương , cùng với các nhà khảo cổ Việt Nam trở lại Sa Huỳnh, tiếp
tục đào bới lớp đất cũ của vùng cư trú Champa cổ và đào ra nhiều kho Chum mới
dọc theo ven biển miền Trung, với những đồi cát trắng phau nối tiếp nhau trong
gió lộng của miền biển cả. Những kho Chum được đào lên chứa nhiều di tích văn
hóa Sa Huỳnh, với trình độ phát triển khác nhau, được các nhà nghiên cứu khoa
cổ học chia thành hai nhóm, vào 2 giai đoạn khác nhau: Thời kỳ Tiền Sa Huỳnh hay
là Tiền Champa: Di tích văn hóa cư ngụ sớm nhất của văn hóa tiền Sa Huỳnh là
thời đại đồ đá, đồng thau có niên đại cách ngày nay khoảng hơn năm ngàn năm.
Thời kỳ Sa Huỳnh
sắt: Ðây là thời kỳ các dụng cụ mưu sinh được làm bằng sắt như: lưỡi dao, kiếm
ngắn, dao quắm, lao, rựa thuổng, xà beng, liềm hái, đục v.v.. những đồ sắt này
là dụng cụ khai phá, chặt, tìm kế sinh nhai và có loại dùng làm vũ khí như: lao,
kiếm, dao…
Văn hóa Sa Huỳnh
sắt là văn hóa nối liền với thời kỳ tiền Sa Huỳnh (không sắt), gắn liền với
vùng đất mà cư dân đó chính là thần dân của nước champa và chính là cộng đồng
dân cư của đất Nhật Nam, nơi Khu Liên đã dấy binh lập quốc đầu tiên, với danh
xưng Lâm Ấp. Cư dân vùng Văn hóa Sa Huỳnh vào thời đó thường dùng khoan tai hai
đầu thú (hình hai đầu con dê) là biểu tượng của văn hóa Sa Huỳnh. Trên địa bàn
sinh cư của vùng văn hóa Sa Huỳnh trước đây (tức vùng miền Trung nước Việt bây
giờ) đều có nuôi nhiều đàn dê và cho đến ngày nay ta thấy các làng Champa tại
tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận có nuôi Dê, các lễ cúng giỗ, cúng Yang có dùng thịt
Dê để cúng.
Trong các di tích
văn hóa Sa Huỳnh, ngoài những kỹ thuật chế tác đồ trang sức bằng thủy tinh hai
đầu thú (Dê), những cư dân thuộc vùng Vương Quốc Cổ Champa còn sở trường về
công nghệ đồ gốm, mà các nhà khảo cổ học khai quật được trong những mộ Chum ở
dưới lòng đất miền Trung Việt Nam ngày nay, đều có hình loại làm bằng chất liệu
đất sét pha cát, hoặc pha tạp với những chất khác thường gọi là Gấu thô màu đỏ
nâu, xám đen, có khi vàng nhạt, đỏ nhạt giống như những loại đồ gốm các làng
champa ở Hựu An, Phan Lý Chăm Bình Thuận và làng Bàu Trúc, An Phước, Ninh Thuận
ngày nay. Champa đã biến mất cách đây gần 3 thế kỷ, nay chỉ còn để lại các di
tích Chăm rải rác ở các tỉnh Trung phần Việt Nam, như Trà Kiệu, Mỹ Sơn, Đồng
Dương, Khương Mỹ, Tháp Mẫm… Viện bảo tàng Champa, do nhà nghiên cứu Pháp
Parmentier thành lập năm 1919, đã thu thập các bảo vật như tượng, bệ, công
trình kiến trúc, điêu khắc của các đền, cung điện… từ nhiều nơi để tồn giữ. Nhưng
tại đây, trải qua nhiều biến cố lịch sử, các di sản đặc sắc của văn minh Champa
cũng không thoát qua nhiều sự mất mát, lưu lạc. Ngày 9 tháng 12 năm 1946, trong
những ngày đầu của chiến tranh Việt- Pháp, giữa sự hổn loạn và thiếu an ninh ở
Đà Nẵng, viện bảo tàng đã bị xâm nhập. Rất nhiều bảo vật cũng như tư liệu trong
thư viện đã bị đánh cắp. Hơn một năm sau, vào năm 1948, Trường Viễn Đông bác cổ
đã gởi ông Manukus đến để hồi phục lại viện bảo tàng. Hơn 150 bảo vật này đã
được tìm lại từ nhà dân, trại lính, phi trường và tận ở Lào (Savanakhet). Năm
1954, Viện bảo tàng là nơi trú ngụ của khoảng 300 người dân di tản chiến tranh.
Năm Mậu Thân 1968, trong trận đánh chiếm lại Huế, Viện bảo tàng này đã trở
thành trại tập trung và là nơi ăn ở của quân đội Nam Việt Nam. Giữa những sự xô
bồ, hỗn độn, va chạm và không có sự bảo vệ và bảo trì như vậy, thì sự hư hại, hay
mất mác các tượng đá, các công trình điêu khắc tất nhiên đã xảy ra. Gần đây
trong năm 1996, các nhân viên viện bảo tàng đã tình cờ tìm ra được 157 mảnh cổ
vật đã được chôn dưới lòng đất trong khuôn viên của viện bảo tàng. Champa đã
biến mất qua những cơn bão lịch sử, nhưng di sản của nền văn minh này cũng đã
chịu đựng nhiều sự cố không may mắn. Một số phận hẫm hiu của nền văn minh
Champa? Trải qua nhiều thế kỷ, các ngôi tháp Champa ở nhiều nơi bị hư hại và đổ
nát bỡi thời gian và do thiên nhiên tác động. Theo Lê Quí Đôn, Ngô Thế Lân, vào
thế kỷ 18, đã để lại bài thơ, Chà bàn cố thành hoài cổ, cho thấy tình trạng sơ
sát, bỏ hoang của các tháp, điện đài của vương quốc Champa cách đây hơn 300
năm.
Bóng tà dừng ngựa
đứng
Man mác nỗi hư vong
Lăng uyển làm chùa
Phật;
Cung đình thành
ruộng cày
Núi tàn trơ tháp
cổ;
Nước cũ hiện thành
hoang
Thần đạo nguyên vô
cứ;
Cửa tây tràn khắc
bia (bản dịch)
Không khác chi tình
trạng hiện nay của nhiều tháp cổ khắp miền trung Việt Nam. Trong cuộc chiến vừa
qua, di tích Đồng Dương hầu như bị huỷ hoại hoàn toàn do bom đạn. Một mất mát
to lớn đối với những thế hệ về sau.
Hầu như tất cả
những gì ta biết về văn minh Champa là đứng từ góc độ của người không phải dân
tộc Champa. Ngày nay, trong sách giáo khoa Đại học của giáo sư D. Hall về lịch
sử Đông Nam Á, ta có thể biết tổng quát về lịch sử đất nước Champa. Tuy vậy
phần lớn dữ kiện từ sách của Hall là dựa vào những công trình nghiên cứu tiên
phong các học giả Pháp như G. Coedes, H. Parmentier và H. Maspero ở đầu TK 20.
Nói chung về khảo
cổ và sử của các nước Champa, Campuchia và một số nước khác ở Đông Nam Á thì
chỉ vào đầu thế kỷ 20 người ta mới biết được nhiều mà thôi. Trước đó không mấy
ai biết nhiều về Campuchia có một nền văn minh Angkor rực rỡ, cả sử của Nam
Dương cũng mù tịt cho đến khi Coedes khám phá ra vương quốc Sri Vijaya ở
Sumatra, còn sử của Champa thì mù mờ, chỉ biết qua tư liệu của các nước láng
giềng như Việt Nam (Đại Việt sử ký toàn thư) hay của Trung quốc (Tống sử, Minh sử..)
đến khi Finot, Parmentier, Majumdar và Maspero khám phá ra bằng phương pháp có
hệ thống. Cả trong sử của Ấn độ, trước đây hoàng đế Ashoka chả ai biết nhiều, chỉ
nghe tên trong vài kinh điển Phật giáo, đến khi Princep khám phá ra qua bia ký
là có thật, một nhà vua hiền triết chuộng đạo Phật với một vương quốc rộng lớn.
Hiện nay nghiên cứu
về nền minh và văn hóa Champa đã được quan tâm và đã có một số công trình
nghiên cứu có giá trị được xuất bản gần đây ở Việt Nam. Đây là một dấu hiệu
đáng mừng cho sự nghiên cứu Champa học ở Việt nam. Trước đây, trong các thập
niên 1970 và sau 1975, có sự dè dặt trong sự nghiên cứu Champa học, vì ngành
này đa số là do các nhà nghiên cứu nước ngoài, chủ yếu là Pháp, khai phá và
phát triển với sự cộng tác của một số cộng tác viên Champa và Việt. Sự dè dặt
nghi kỵ của người Việt về mục đích chính trị đối với các công trình nghiên cứu
Champa học không phải là không có lý do. Vì đã có nhiều thế lực chính trị lợi
dụng để chia rẽ, hay muốn tách rời địa phận để độc lập làm khó khăn cho Việt
Nam trong những năm chiến tranh chống thực dân, giảm đi tiềm năng và bước tiến
của lịch sử. Nhưng sự dè dặt và nghi ngờ này nếu đi quá cũng có hệ quả là lãnh
vực Chăm học, “sân chơi” chỉ dành cho lực lượng người nước ngoài nghiên cứu, mà
Việt Nam thì chỉ có lưa thưa vài người.
Khi đề cấp đến sở
thích về nghiên cứu văn minh Champa thì mọi người đổi thái độ và hơi dè dặt lo
âu. Cuối thập niên 1990, tổ chức Toyota Foundation đã tài trợ cho Gs Trần Kỳ
Phương xuất bản bộ sách tổng hợp về sự hiểu biết hiện nay về văn minh Champa ở
Việt Nam, như trước đây họ đã tài trợ cho bộ sách về văn minh Đông Sơn do Gs Hà
Văn Tấn xuất bản. Không may là sự việc đã không thành.
Ngày nay Việt Nam
đã khác nhiều và tự tin hơn về đất nước mình qua sự chuyển mình về kinh tế và
tiềm năng trong tương lai. Tư duy cũng đã thay đổi từ thời chiến qua thời bình,
mặc dầu có những khó khăn trong những năm chuyển tiếp. Sự vững tin này cũng thể
hiện trong lãnh vực văn hóa, văn học và nghiên cứu trong những năm gần đây.
Viện Nghiên cứu Đông Nam Á đã thành lập. Việt Nam ngày nay là thành viên của tổ
chức ASEAN. Cộng đồng Champa ở Việt Nam là gạch nối với các thành viên
Indonesia, Mã Lai cùng tôn giáo và liên hệ ngôn ngữ. Các nước này đã có những
chương trình hoạt động văn hóa, nghiên cứu chung với cộng đồng Champa. Sợi dây
liên hệ giữa Việt Nam và Đông Nam Á sẽ càng đan kết và thắt chặc.
Lần đầu tiên sau
nhiều năm qua đã có một hội nghị Champa học vào tháng 8/2004 ở Singapore qui tụ
một số học giả từ nhiều nước như Việt Nam, Singapore, Nhật, Anh, Mỹ, Pháp. Nhiều
báo cáo, khám phá mới có giá trị đã được thông báo: những hiểu biết về văn minh
Sa Huỳnh và Champa qua địa điểm khảo cổ Trà Kiệu, liên hệ giữa ngôn ngữ Champa
và các ngôn ngữ dân tộc ở Tây Nguyên. Một điểm đáng chú ý trong các bản báo cáo
là các tài liệu Trung quốc trước kia chưa được quan tâm đến nay đã được một số
học giả nghiên cứu: Minh sử, Tống hội yếu tập cao và Cửu Phiên Chí. “Tổng hội
yếu tập cao” có nhiều thông tin về Champa từ 960-1180 như sự liên hệ của Champa
với triều đình Tống, Chân Lạp, Srivijaya, Đại Việt (thuộc Giao Châu thời bị
Trung quốc đô hộ và sau khi độc lập năm 960) nông lâm nghiệp, thương mại hàng
hải...
Tiếp nối công trình
bỏ dỡ của Boisselier khi ông này mất, Emmanuel Guillon năm 2002 đã xuất bản tác
phẩm về nghệ thuật Champa qua những bảo vật ở viện bảo tàng Đà Nẵng. Sách có
giá trị tham khảo, tổng hợp sự hiểu biết từ trước đến nay kể cả những khám phá
các di vật khảo cổ mới thu thập được.
Ở Việt Nam, các
sách về văn hóa, văn học, nghệ thuật Champa của Ngô Văn Doanh, Trần Kỳ Phương, Pgs ts: Po Dharma, Inrasara...với những hiểu biết mới cũng đã được xuất bản. Lãnh
vực Chăm học như có luồng sinh khí mới mở đầu cho thời kỳ Phục hưng trong
nghiên cứu mà trước đây đã bị bỏ quên, ít được quan tâm trong một thời gian
dài, sau những công trình khám phá tiên phong của các học giả Pháp trong giai đoạn
nữa đầu thế kỷ 20.
-Indrapura vùng
đất từ Đèo Ngang, Hoành Sơn đến đèo Hải Vân (Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa
Thiên) là vùng giao điểm của hai văn minh từ hướng Bắc và hướng Nam hải đảo.
Đây là vùng đất "đệm" của hai nền văn minh Ấn-Hoa. Di tích Champa
trong vùng này còn ở Mỹ Đức, Quảng Bình, Hà Trung, Thạch An, Bích La cũng như ở
dãi cồn ở Cửa Tùng, Cửa Việt. Di tích Tháp Champa được tìm thấy ở An Xá (Do
Linh), Cam Giang, Cam Lộ, Cổ Thành Ái Tử và Trà Liên.
Tại vùng này, người
ta cũng tìm được nhiều đồ gốm xưa của văn hoá Champa và Trung quốc từ thời
Đường, Tống, Minh.. chứng tỏ xưa kia ở đây cũng có thể là nơi có các hải cảng
thương mại sầm uất không kém cảng Hội An về sau này.
Xa hơn nữa vào thời
tiền sử, vùng này là nơi chuyển tiếp của giao lưu văn hóa Sa Huỳnh và văn minh
Đông Sơn qua Đèo Ngang. Nơi đây còn có các di tích văn hóa Sa Huỳnh ở Cồn Bàu,
đảo Cồn Cỏ, Cổ Trai ở Cửa Tùng. Đồ đồng Đông Sơn đã được tìm thấy ở Tam Mỹ, Phú
Hòa và mới đây tận mãi Bình Định, còn những khuyên tai hai đầu thú và các hạt
chuổi thuỷ tinh thuộc văn hoá Sa Huỳnh, thì tìm thấy được ở Xuân An, Làng Vạc
(Nghệ An, Hà Tĩnh). Văn hoá Sa Huỳnh được các nhà khảo cổ Việt Nam và nước
ngoài cho là có không gian chính từ Quảng Nam đến Đồng Nai.
Tháng 8, 2001 ở
Thừa Thiên, Huế, tình cờ tìm được một ngôi tháp Chăm nhỏ, đỉnh tháp đã mất,
thân tháp cao khoảng gần 2m. Theo Ngô Văn Doanh, ngôi tháp này (gọi là tháp Mỹ
Khánh) có niên đại ở thế kỷ 8. Như vậy là ngôi tháp Chăm cổ nhất hiện còn thuộc
phong cách Mỹ Sơn E1.
Trong chiến tranh
chống Mông cổ dưới đời vua Trần Nhân Tông, liên minh Champa-Việt đã thành công
đẩy lui hiểm họa xâm lăng từ phương bắc qua đường bộ và thủy. Từ sự liên kết
này qua chính sách chiến lược sáng suốt của vua Trần Nhân Tông, mà Jaya Simha varman
III (Chế Mân) cũng đã đồng ý theo lời đề nghị của thượng hoàng Nhân Tông, trong
dịp ông rời nơi tu dưỡng ở núi Yên Tử đi viếng Champa, để lấy công chúa Trần
Huyền Trân, em gái của vua Trần Anh Tông.
Trong hôn nhân
Champa-Việt này, lãnh thổ Champa là châu Ô và châu Rí (Quảng Trị và Thừa Thiên)
đã được nhượng tặng cho Đại Việt. Trong thời trị vì của vua Chế Mân, quyền lực
Champa rất mạnh trãi rộng đến tận Tây Nguyên nam phần. Tháp Yang Prong ở Tây
Nguyên và tháp Jaya Simhalingesvara (tháp Pô Klaung Garai) nổi tiếng ở Phan
Rang là do chính Chế Mân xây dựng. Tuy nhiên sau khi Nhân Tông và Jaya Simha varman
mất, vua Anh Tông hoàn toàn thay đổi chánh sách. Chiến tranh Champa- Việt trở
lại khốc liệt hơn khi Champa đòi lại vùng đất đã nhượng.
Theo Minh sử, một
trong những lý do nhà Minh đã gởi tướng Trương Phụ xâm lăng Đại Việt là Đại
Việt đã nhiều lần xâm phạm lãnh thổ Champa. Sứ giả Champa lúc này đã dùng chiến
thuật ngoại giao rất có tác dụng. Họ đã báo cáo thường xuyên rất nhiều lần và
nhờ nhà Minh trợ giúp quân sự hay mua võ khí để đánh trả Đại Việt. Nhưng cũng chính
sự chiếm đóng đô hộ Đại Việt của nhà Minh, trong một thời gian đã đưa đến các
nguyên nhân dẫn đến sự suy tàn của vương quốc Champa, sau khi Đại Việt dành lại
được độc lập. Theo Wade thì có 2 nguyên nhân chính: Sự chiếm đóng và quản lý
của nhà Minh ở Đại Việt và các quận ở Indrapura đã mở rộng phạm vi Đại Việt, khi
quân Minh rút đi Sự chuyển giao kỷ thuật quân sự (súng ống) của nhà Minh vào
Đại Việt. Ðến thời Lê Thánh Tông, vương quốc Champa hoàn toàn bị mất thế trong
tương quan lực lượng quân sự. Champa bắt đầu tàn lụi sau khi thủ phủ Vijaya bị
tàn phá với dân số một phần bị tiêu diệt và bị bắt làm tù binh mang về Đại
Việt.
Theo Shiro Momoki,
qua các tư liệu như “Tống hội yếu tập cao”, “Chư Phiên Chí” thì Champa vào thế
kỷ 10 đến 11 vẫn còn các cơ cấu xã hội, chính quyền ở phía bắc đèo Hải Vân. Như
vậy quan điểm cho rằng người Việt liên tục mở rộng xuống phía Nam từ thế kỷ 10
là không đúng. Ngay cả ở thế kỷ 14, Champa không suy tàn như ta nghĩ, mà vẫn
phát triển hoạt động thương mại với Trung Quốc và các nước trong vùng. Vải
bông, đồ gốm Chăm xuất khẩu đến các nước Đông Nam Á hải đảo. Cửa Thị Nại là
cảng quan trọng ở biển Nam mà Kublai Khan coi là cảng tiếp nối từ cảng Quảng
Châu đến cảng Qui lam ở nam Ấn Độ. Như vậy sự nam tiến của Đại Việt sau 1390 chỉ
có thể được coi như là một chiến thắng len lỏi từ sau lưng.
-Amaravati
Từ đèo Hải Vân
(Quảng Nam) xuống phía nam đến giáp Bình Định là vùng trọng điểm của văn minh
Champa với các di tích lớn như Mỹ Sơn, Trà Kiệu, Đồng Dương, Khương Mỹ, Chiên
Đàn. Nơi đây ở Đồng Dương đã tìm thấy tượng phật đồng rất đẹp đầy mỹ thuật
(hiện còn tàng trữ ở viện bảo tàng Thành phố SG). Đặc biệt các tượng điêu khắc,
kiến trúc ở đền Đồng Dương chịu ảnh hưởng của Phật giáo đại thừa. Trong tất cả
các di tich Chăm, nghệ thuật Chăm Đồng Dương là độc đáo sáng tạo và là nơi duy
nhất có chịu ảnh hưởng tư tưởng từ Trung quốc phương bắc. Di tích Đồng Dương
hầu như đã bị huỷ diệt hoàn toàn trong cuộc chiến tranh vừa qua. Trà Kiệu hay
Simhapura (Thành phố sư tử, từ chữ Simha, Singha nghĩa là sư tử và pura là
thành phố) là kinh đô xưa nhất của Champa ở Amaravati. Trước cả 2 thành phố
"sư tử" khác ở Đông Nam Á là Singapore (Lion City, từ Singha và pura)
và Singburi (Singha và buri (thành phố), gần Ayuthaya, Thái Lan. Xưa kia sư tử
còn hiện diện ở Cận Đông và Bắc Ấn (các vua người Assyria thường đi săn bắn sư
tử như trên các bia khắc đền đã mô tả), sau này sư tử Á châu tuyệt chủng chỉ
còn lại sư tử ở Phi Châu. Theo Ngô Văn Doanh thì từ Trà Kiệu hiện nay là biến
âm từ chữ Chăm cổ ya – sông, nước và chữ Phạn: keo - ngọc, mà người Việt gọi là
thành Sông Ngọc để chỉ thành phố Simhapura. Mariko Yamagata, Ian Glover, Nguyễn
Kim Dung của nhóm nghiên cứu Việt- Anh- Nhật khai quật ở Trà Kiệu (1997-2000)
và ở Gò Cam (2000) gần sông Thu Bồn, cách thành cổ Trà Kiệu 3.5km về phía Đông.
Tại đây đã tìm thấy các hủ đất giống các hiện vật ở Trà Kiệu, các đồ gốm, đồng,
dấu ấn thời Hán, di tích nhà gổ cổ nhất. Dưới tầng khai quật trên là các di vật
thuộc văn hóa Sa Huỳnh, cho thấy có sự liên tục và người Chăm là hậu duệ của
người Sa Huỳnh. Địa điểm Gò Cam gần ba di tích mộ chôn Sa Huỳnh: Gò Miếu Ông,
Gò Mã Voi, Gò Vàng. Ông Yamagata cho rằng Trà Kiệu và Gò Cam xuất hiện sau sự
suy tàn của văn hóa Sa Huỳnh. Tầng cuối nhất của địa điểm khảo cổ Hoàn Châu
(Trà Kiệu) và Gò Cam được thẩm dịnh ở nửa đầu thế kỷ 2.
Mỹ Sơn là di tích
Champa lớn nhất, nằm trong thung lũng, dọc theo một con suối. Nơi đây có nhiều
đền, tháp, bia ký được nhiều triều đại trong lịch sử Champa xây dựng. Nhờ bia
ký tìm được mà người ta biết được là người sáng lập ra Mỹ Sơn vào thế kỷ thứ 4
là vua Bhadra varman I . Dù thủ đô có dời hay ở nơi nào khác do thời cuộc, các
vua chúa Champa vẫn hướng về Mỹ Sơn để tưởng nhớ và xây đền thờ. Thánh địa Mỹ
Sơn vì thế có nhiều kiến trúc khác nhau theo các phong thái riêng của mỗi thời…
Phần lớn những công trình kiến trúc hiện còn ở Mỹ Sơn được xây dựng vào thế kỷ
thứ 10 có chung một phong cách kiến trúc được các nhà nghiên cứu gọi chung là
phong cách Mỹ Sơn A1. Trước phong cách Mỹ Sơn A1 là các nhóm tháp thuộc thế kỷ
8 đến 9. Qua lịch trình phát triển kiến trúc Champa thì trong 2 thế kỷ 8 và 9, có
ba phong cách khác nhau phong cách Mỹ
Sơn E1, phong cách Hoà Lai và phong cách Đồng Dương.
Trong cuộc chiến
tranh Việt- Mỹ vừa qua, đền Mỹ Sơn A1 và vài di tích lân cận đã bị phá huỷ khi
trúng bom máy bay Mỹ trong một phi vụ oanh kích. Vào năm 1988, trong một công
trình thủy lợi, người ta tình cờ khám phá ra di tích tháp An Mỹ, Tam Kỳ với
nhiều điêu khắc đá như bộ linga- yoni, trang trí kiến trúc (đỉnh, cột tháp),
mảnh vở của tấm bia… Niên đại được thẩm định vào đầu thế kỷ 10, thuộc phong
cách chuyển tiếp từ Đồng Dương đến Mỹ Sơn A1.
Vào năm 1997, tỉnh
Quảng Nam và chính phủ Việt Nam đã đề nghị và xin Liên Hiệp Quốc đưa Trà Kiệu,
Mỹ Sơn và Đồng Dương lên danh sách những di sản của thế giới (World Heritage
list) để bảo tồn. Đây là những di tích văn hóa xưa nhất ở Trung Việt Nam, lâu
hơn Huế 12 thế kỷ. Hiện nay quần thể Mỹ Sơn được công nhận là một di sản văn
hoá thế giới.
Đồng Dương (Indrapura)
một thời là kinh đô Champa dưới triều đại Indrapura. Triều đại Indrapura, do
vua Indra varman II sáng lập, bắt đầu từ năm 875. Các đền tháp phong cách Mỹ
Sơn A1 đều được xây dựng dưới triều đại Indrapura. Sau hơn một thế kỷ phát
triển, kinh thành Indrapura bị tiêu hủy trong trận chiến với vua Lê Đại Hành
vào năm 982. Năm 1000, vua Champa Hari varman II rời hẳn thủ đô về Vijaya ở
phía Nam.
Một số người Champa
cũng đã di cư qua đảo Hải Nam (và hiện nay họ vẫn còn) sau cuộc chinh phạt của
Lê Hoàn vào Amaravati. Một tướng của Lê Hoàn là Lưu Kỳ Tông, phản lại nhà Lê,
tự xưng vương ở Amaravati (986-988) đã cai trị hà khắc, huỷ diệt đền đài và nhiều
bia ký ở Mỹ Sơn, nên một số người Champa đã chạy đến đảo Hải Nam (Trung Quốc). Theo
sử gia Maspero vì bị mất nhiều bia ký (tk 8-10), nên trong giai đoạn này lịch
sử Champa không được biết nhiều.
-Vijaya
Mặc dầu Indrapura
và Amaravati vẫn là lãnh thổ Champa khi dời đô về Vijaya vào năm 1000, Indrapura
và Amaravati đã trở thành các tỉnh ngoại vi, không còn chiếm vị trí quan trọng
về kinh tế, chính trị của Champa. Năm 1286, đất Indrapura phía bắc đèo Hải Vân
nhượng cho Đại Việt khi vua vua Champa cưới công chúa Huyền Trân. Vua Champa
Chế Bồng Nga lấy lại được trong chiến tranh với Đại Việt. Năm 1390, khi Chế
Bồng Nga mất, Indrapura mất hẳn, sau đó không lâu Amaravati cũng rơi vào tay
Đại Việt.
Sau khi bị mất
Indrapura và Amaravati vào tay Đại Việt thì vùng đất từ Bình Định đến Phú Yên
là nơi dân tộc Champa rút về tập trung ra sức chống chỏi lại cuộc nam tiến của
Đại Việt. Khi dân Việt đi vào định cư, thì người Champa có đặc tính và khuynh
hướng là không bám trụ ở lại. Đa số họ dời đi chổ khác xuống phía Nam, chứ
không ở lại với người Việt. Có thể đây vì hai văn hóa có sự khác biệt nhiều.
Tập trung quanh khu
vực kinh đô mới Trà bàn (Vijaya), họ cũng cố gắng lấy lại một cách vô vọng những
vùng đất phía bắc đã bị mất. Nhưng đến năm 1471, kinh đô Trà bàn cũng đã bị
thất thủ và tàn phá khi vua Lê Thánh Tông đem quân chiếm đồ bàn. Đây là cuộc
tàn sát đẫm máu nhất của đại việt với champa, hơn 60000 người bị giết, 30000 bị
bắt về thăng long, vua champa Trà toàn bị bắt và đã bị sát hại ngày 12 tháng 4
âm lịch (1471) trên đường giải về thăng long. Lê Thánh Tông đã dùng chính sách
phá hủy văn hóa, để tiêu diệt dân tộc và năng lực tinh thần nước Champa: đền
đài, cung điện, tháp, bia ký, tư liệu phản ảnh đặc trưng của văn hoá Champa đều
bị phá hủy, quân dân và nghệ nhân bị tàn sát hay bị bắt đi. Mất Vijaya coi như
vận mệnh của Champa đã tàn. Đối với Đại Việt thì Lê Thánh Tông là vị vua thành
công nhất dưới triều Lê trong lãnh vực văn hóa, kỷ cương xã hội dựa vào nho
học. Lê Thánh Tông là đại diện tiêu biểu cho văn minh Trung quốc phương bắc đối
chọi với văn minh Đông Nam Á. Cốt lỏi văn minh bản địa Đông Nam Á của Đại Việt
đã bị đè nén và dần dần bị tan lỏn dưới lớp văn hóa Hán nho. Trong cuộc “xung
đột văn minh” sống còn này, văn minh Champa Đông Nam Á đã phải lùi một bước dài
quyết định trước bước tiến của văn minh nho học Trung quốc.
Không những bị áp
lực từ Đại Việt ở phương Bắc, mà Champa còn đối diện với vương quốc Khmer ở
phía Nam. Vào thế kỷ 12, quyền lực Khmer ở Angkor lan rộng và ảnh hưởng đến
Champa, gây ra các cuộc xung đột giữa Angkor và Vijaya. Từ thế kỷ 12 đến 15,
Champa đã chịu hai sức ép từ Đại Việt và Angkor. Đó cũng là nguyên nhân dẩn tới
sự suy vong của Champa. Sau khi Champa đánh chiếm và tàn phá Angkor năm 1177,
vua Khmer Jaya varman VII đã giải phóng thủ đô Angkor năm 1181, tiến đánh chiếm
Vijaya và Champa. Từ năm 1203, Champa trở thành một tỉnh của Khmer cho đến năm
1220 thì Champa dành được lại độc lập, sau cuộc thảm bại của liên quân Khmer,
Xiêm, Pagan đánh vào Đại Việt, dưới triều vua Sri Jaya Paramesvara varman II mà
bia ký đá ở Chợ Dinh (Phan Rang) cho thấy. Cũng không lạ gì mà rất nhiều kiến
trúc, điêu khắc đền tháp ở Vijaya chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Khmer. Hiện nay
thành Vijaya (Trà Bàn) không còn, chỉ còn chút vết tích tường thành để lại. Chính
giữa thành, trên một gò nhỏ còn trơ lại duy nhất tháp Cánh Tiên (tháp Đồng).
Ngoài ra có hai con voi đá và hai con sư tử đá rất lớn gần lăng Võ Tánh. Điêu
khắc và mô típ của tượng voi và sư tử đá cho thấy chúng thuộc giống các tượng
điêu khắc ở tháp Dương Long. Các công trình kiến trúc khác còn lại hiện nay ở
vùng Vijaya là các tháp Bánh Ít, Bình Lâm, Thủ Thiện, Phú Lộc, tháp Nhạn. Phong
cách kiến trúc này được gọi là phong cách Bình Định hay phong cách Chánh Lộ.
Phong cách Bình Định có niên đại vào khoảng cuối thế kỷ 10 đến cuối thế kỷ 11.
Tháp Bình Lâm là tháp duy nhất ở đồng bằng thay vì như các tháp khác ở trên
đồi. Tháp Bình Lâm gần một thành cổ. Thành này đã bị đổ nát, không còn dấu tích
nữa. Nơi đây chính là vị trí cảng Thị Nại, mà quân Đại Việt và quân Nguyên Mông
Cổ lúc đi đánh Champa đã đổ bộ trước khi tiến về Vijaya theo đường bộ từ cảng.
-Kauthura Vùng đất
này hiện nay thuộc địa phận tỉnh Khánh Hòa. Kauthura nổi bật vào thời kỳ sau
Lâm Ấp mà sử Trung quốc gọi là nước Hoàn Vương. Sử Trung quốc không còn đề cập
đến Lâm Ấp sau đó nữa. Quyền lực của Champa chuyển từ phía bắc xuống Kauthara ở
phía nam. Vì thế thời Hoàn Vương, Champa có nhiều liên hệ và ảnh hưởng với Chân
Lạp và Java. Tính chất thờ thần Visnu và theo Phật giáo trội hơn theo đạo thần
Siva. Thời Hoàn Vương, Champa chịu nhiều đợt tấn công từ Java như bia ký ở đền
Po Nagar cho thấy giặc Java đến cướp tượng thần và phá đền. Vua Satya varman đã
cho dựng lạ vào năm 784 tượng Yan Pu Nagara (nữ thần mẹ đất nước). Đây là bằng
chứng đầu tiên và cổ nhất về tục thờ nữ thần mẹ xứ sở Po Nagar của Champa. Theo
bia ký thì thủ đô của Champa thời Hoàn Vương là Virapura. Vị trí của Virapura
chưa được xác định, nhưng chắc là ở vùng Kauthura hay Panduranga.
Vào thời Hoàn Vương
(758-859), các kiến trúc Champa được xây dựng theo phong cách Hòa Lai (từ tên
tháp Hòa Lai ở đông bắc Phan Rang). Phong cách kiến trúc rất gần với phong cách
Chân lạp và Indonesia. Ở Po Nagar, gần Nha Trang có nhiều bia ký, kể cả hai bia
của vị vua cuối cùng thời Hoàn Vương Vikranta varman III.
-Panduranga (Phan
Rang)
Đây là vùng cứ địa
cuối cùng còn sót lại của vương quốc Champa. Năm 1692, khi vua Po Saut định
chiếm lại lãnh thổ Chăm Kauthura bị mất trước đây, chúa Nguyễn đã gởi quân đánh
chặn và bắt được Po Saut. Chiếm được Panduranga, chúa Nguyễn đổi tên Champa
Panduranga thành trấn Bình Thuận và xác nhập vào lãnh thổ đàng trong. Lãnh thổ
cuối cùng của một nước Champa độc lập coi như bị mất và chính thức không còn
hiện diện nữa. Tuy vậy vào năm 1693, dân Panduranga đã nổi dậy. Thấy khó lòng
dẹp được cuộc nổi loạn này, chúa Nguyễn buộc phải bãi bỏ Bình Thuận và trả lại
Panduranga cho vua Po Saktiraydaputih (em của vua Po Saut) với điều kiện là mổi
năm Champa Pandugara triều cống.
Trong gần suốt thế
kỷ 18, Panduranga nằm giữa vùng tranh chấp của Tây Sơn và chúa Nguyễn. Năm
1802, khi Nguyễn Ánh Gia Long thắng được Tây Sơn, vùng Panduranga được Gia Long
cho thiết lập là vùng tự trị, cai quản bởi Po Sau Nun Can, một bạn đồng hành
thân thiết của Gia Long trong thời kỳ chinh chiến với Tây Sơn. Suốt dưới triều
Gia Long, Panduranga được tự trị như một tiểu quốc dưới sự bảo hộ của vua Gia
Long và tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt. Khi Gia Long mất năm 1820, Minh
Mạng lên ngôi với chính sách trung ương tập quyền và tư tưởng dựa theo mô hình
Thanh triều ở Trung quốc. Panduranga trở thành con chốt trong sự tranh chấp
quyền lực giữa Minh Mạng và Lê Văn Duyệt. Năm 1828 khi vua Panduranga mất, Minh
Mạng tấn phong một viên chức Champa thân với Minh Mạng lên thay thế, nhưng Lê
Văn Duyệt đã thay viên chức này với người con của Po Sau Nun Can. Vị này thân
với Lê Văn Duyệt chịu qui thuận, trả thuế và triều cống Gia Định thành. Kể từ
năm 1828, số phận Panduranga vì thế gắn liền với Lê Văn Duyệt.
Khi Lê Văn Duyệt
mất (1832), Minh Mạng đã ra tay trừng phạt không những các lãnh đạo, chức sắc ở
Gia Định thành và vị vua Champa đã cả gan triều cống tổng trấn Gia Định thành
mà tất cả dân ở Gia Định thành và Panduranga cũng bị vạ lây qua sự trả thù của Minh
Mạng: ruộng bị tịch thu và dân bị bắt xung vào lao công. Sự hà khắc đối sử tàn
nhẩn của Minh Mạng với dân ở Gia Định thành và Panduranga mà trước đây đã trung
thành và giúp đỡ Gia Long trong cuộc chiến với Tây Sơn, đã gây ra làn sóng bất
bình, phẩn nộ nổi dậy khắp miền Nam. Lê Văn Khôi đã tập trung nhiều thành phần
trong xã hội, nhiều sắc tộc (Hoa kiều ở Gia Định, Chăm ở Panduranga) nổi lên
chống lại Minh Mạng. Ở Panduranga, cuộc nổi dậy được lãnh đạo bởi Katip Sumat,
một người Champa theo đạo Hồi. Cuối năm 1833, cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi và
Sumat không thành công. Minh Mạng đã xử tội dân Gia Định và Panduranga tàn khốc
hơn.
Sau khi cuộc khởi
nghĩa của Lê Văn Khôi bị dập tắt, vua Minh Mạng đã bãi bỏ tiểu quốc Panduranga,
xác nhập vào tỉnh Bình Thuận. Đầu năm 1834, Thak Va lãnh đạo dân Panduranga nổi
lên lần cuối cố lập lại vương quốc Champa nhưng chỉ trong vòng một năm, giấc
mộng cuối cùng của Champa đã bị dập tắt. Lê Thánh Tông ở thế kỷ 15 khởi đầu cho
sự suy vong của Champa. Đến đời Minh Mạng ở thế kỷ 19, vị vua nho học theo mô
hình văn minh Hán Trung quốc này đã khai tử vương quốc Champa của văn minh Đông
Nam Á.
Khác với những vùng
khác, Panduranga hiện vẫn còn cộng đồng người Champa sinh sống, đa số tập trung
ở Ninh Thuận và Bình Thuận. Vì thế nhiều tháp trong vùng (như Po Rome, Po
Klaung Garai) vẫn còn được dùng để thờ cúng và trong các dịp lễ hội, chứ không
bị bỏ hoang như ở các đền tháp ở Amaravati, Vijaya và Kauthura. Tháp Pô Klaung
Garai nổi tiếng ở Phan Rang là do Chế Mân (Jaya Simha varman III) xây lên để
thờ cá nhân mình vào thế kỷ 14. Đền này trước đây còn có tên là Jaya
Simhalingesvara. Tháp vẫn còn được người Việt và Champa dùng để thờ cúng. Trên
các trụ cửa của tháp chính, có các ký tự kể lại việc vua Jaya Simha varman III
dâng đất và nô lệ cho thần Jaya Simhalingesvara.
Tóm lại, đất Việt
Thường xưa kia có các bộ lạc thuộc chủng Mon-Khmer như Vân Kiều, Bru, Pa kô, Tà
Ôi hay có thể Mường và Austronesian cư ngụ trong cùng một không gian. Sau đó
đến thế kỷ thứ 2 thì thành phần Austronesian từ bờ biển đến. Thành phần này đã
bị Ấn hóa, có thể từ Funan hoặc các vương quốc Ấn hóa trong vùng Đông Nam Á.
Chủng Champa Austronesian này văn hóa cao hơn đã đẩy những những dân tộc khác
vào trong nội địa. Sau này ta cũng biết là sau đó người Champa đã cố gắng chinh
phục các dân tộc vùng Tây Nguyên mà dấu vết Champa trên Tây nguyên hiện nay vẫn
còn. Đến thế kỷ 3 và 4 thì đất Việt-Thường, hay Tượng Lâm, Lâm Ấp hoặc
Amaravati đã là của người Chăm Indonesian. Sách Hán "Thuỷ kinh chú"
ghi tên gọi của nước Lâm Ấp là huyện Tượng Lâm, sau bỏ chử "Tượng"
chỉ gọi là Lâm Ấp.
Thực sự nói Lâm Ấp,
Hoàn vương hay Champa là một quốc gia hay nước thì cũng không đúng lắm theo sự
định nghĩa của ngày nay. Từ dùng đúng hơn là mandala, từ ngữ mà nhà nghiên cứu
O. Wolters đã đề nghị cho thể chế Champa trong giai đoạn này.
"Mandala" một loại liên hiệp các "tiểu quốc". Người Champa
có hai bộ tộc lớn: bộ tộc Cau và bộ tộc Dừa. Dòng Cau (kramuk vansh) trị vì
miền Bắc gồm Indrapura (Bình Trị Thiên), Amaravati (Quảng nam, Quảng Ngãi) và Vijaya
(Bình Định, Phú Yên). Dòng Dừa trị vì miền Nam gồm Kauthura (Khánh Hoà),
Panduranga (Bình Thuận). Dòng Cau là dòng (cha) và dòng Dừa là (mẹ). Vương quốc Champa là tên mà
người Champa đặt cho đất nước và dân tộc của họ là tập hợp của hai tiểu quốc
trên.
Khi dòng tộc Cau bị Đại Việt đẩy lùi và tiêu diệt mà nơi trấn thủ cuối cùng
là Vijaya (Đồ Bàn, Bình Định) thì họ đã chạy về tiểu quốc dòng Dừa mẹ ở phía
nam. Coi như thành luỹ của dòng cha đã tan vào thế kỷ 15. Vận Champa tàn sau
12tk tranh đấu trên vùng giao thoa Ấn - Hoa. (Ở Âu châu có một vùng tương tự,
đó là vùng Balkans nơi nền văn minh Ki-tô Châu Âu (Công giáo & Chính thống
giáo) Hồi giáo Trung Đông giao thoa : vùng "đệm" của 2 văn minh Âu-Á)
Nhiều nhà nghiên cứu cổ học đã cho rằng: khi Khu Liên dựng nước Lâm Ấp
(Tiền thân của Champa) ở cuối thế kỷ thứ II (theo sử cũ của Trung Hoa và bia ký
Granit tại làng Võ cạnh Nha Trang) chỉ là sự là sự tiếp nối thực trạng văn hóa
Sa Huỳnh Tiền Champa. Từ những năm đầu công nguyên, vùng đất thuộc thừa thiên huế
ngày nay là một phần của quận nhật nam. Cùng một số phận như cư dân của hai
quận giao chỉ và cửu chân, thời triệu đà trước đây, cư dân bản địa quận nhật
nam đã sát cánh cùng nhân dân giao chỉ hưởng ứng cuộc khởi nghĩa hai bà trưng,
giữ quyền cai quản của mình. Hòa đồng cùng cộng đồng người việt phía bắc, cư
dân cổ vùng nhật nam đã nhiều lần khởi nghĩa chống lại ách bắc thuộc phương
bắc, giữ vững nền văn hóa dân tộc. Sau khi lâm ấp thành lập vương quốc Champa
vào cuối thế kỷ 2 sau công nguyên (192), với các trận chiến mang tính quyết
định với phương bắc nhà hán vào các năm 248, 270-280, 347-348, nước champa đã
lan rộng ra phía bắc đến vùng ba đồn sông gianh ngày nay. Vương quốc Champa từ
khi lập quốc đến nửa đầu tk lV, trong vòng 150 năm, từ khi nhà đông hán suy
yếu, nhà ngô và nhà tấn điều phải giải quyết công việc nội bộ giao chỉ. Vương
Quốc Champa có điều kiện củng cố và mở rộng đất nước. Hình thành một vương quốc
độc lập, ra đời sớm nhất của đông nam á, mang sắc thái bản địa và ảnh hưởng nền
văn hóa ân độ. Từ cuối thế kỉ thứ 7, khu vực từ đèo ngang đến bên kia đèo hải
vân đã xảy ra chiến tranh liên miên giữa vương quốc Champa với các triều đại
phong kiến phương bắc: đại tống, nhà tùy...Trong cuộc viễn chinh năm 605 của
nhà tùy, vua champa đã áp dụng chính sách hòa hoản, đồng thời cùng thời gian
này, nhà tùy suy yếu. Năm 618, nhà đường thay nhà tùy, tình hình Champa yên ổn
và phát triển. Từ giữa tk7 đến tk10, trong hơn 350 năm ổn định, ngoại trừ các
cuộc chiến tranh nhỏ với giao châu và bọn cướp biển, vương quốc Champa là một
quốc gia yên ổn và phát triển bật nhất của đông nam á.
Qua những dữ kiện trình bày sơ lược nêu trên đã giúp chúng ta có một cái
nhìn tổng quát về tiến trình cội nguồn dân tộc Champa trong suốt chiều dài lịch
sử thời: Tiền Sa Huỳnh chưa lập quốc, đến thời đoạn Sa Huỳnh sắt (Lâm Ấp) đến
Champa; giai đoạn suy vong sau cùng là dân tộc champa trong cộng đồng Quốc gia
Việt Nam ngày nay. Qua các di tích văn hóa Sa Huỳnh thời tiền Champa tức là
giai đoạn Sơ kỳ Ðồng Thau cách đây bốn ngàn năm, như các nhà khảo cổ học tuyên
bố ,cùng với nghiên cứu xác đáng của Bác Sĩ Stephen Oppenheimer, tác giả quyển
sách “Ðịa đàng ở Ðông Phương” cho chúng ta hiểu biết rằng: Tổ tiên Champa là
“Cư Dân Bản Ðịa” tại vùng đất, quê hương và Vương quốc cổ của họ ngay từ thời
tiền sử, chứ không phải là dân di cư từ các vùng khác đến.Tháp tại kinh đô vijaya vương quốc Champa
Hiện có 14 công trình kiến trúc tập trung tại 8 địa danh như: Bánh Ít; Dương Long; Hưng Thạnh; Cánh Tiên; Phú Lốc; Phú Thiện; Bình Lâm và Hòn Chuông. Ngoài ra còn có 4 tòa thành cổ gồm Thị Nại, Đồ Bàn, Nhơn Thành, Uất Trì và hàng loạt các tác phẩm điêu khắc, những phế tích của tháp Champa như giếng cổ hình vuông; rắn Naga; trụ văn bia; tượng thần điểu Garuda; phù điêu Lăng Ông; tượng tu sĩ; khu mộ cổ,đều được phát hiện tại Bình Định. Trong tất cả các cổ vật phát hiện được, đáng chú ý là di vật tượng tu sĩ ở chùa Linh Sơn, thuộc thôn Hải Giang, xã Nhơn Hải, Tp. Quy Nhơn. Những cư dân ở đây trong lúc đang canh tác đã phát hiện bức tượng chôn sâu dưới lòng đất và đã đào lên đem hiến cho chùa. Dân địa phương gọi là chùa “Phật lồi”. Ở Quy Nhơn hiện vẫn còn dấu vết các lăng mộ cổ của người Champa tại xã đảo Nhơn Châu.Di tich thanh thi nai….. Lịch sử Champa từ thời hoàng kim đến lúc suy vong đã trải dài trên 2000 năm đã lưu lại cho hậu thế hàng chục ngôi cổ tháp với những kiểu kiến trúc, chạm trỗ độc đáo, bí hiểm.Ở khu vực duyên hải miền Trung hiện có trên 19 khu tháp với hơn 40 ngôi thấp cổ lớn nhỏ.Huyền thoại về con tàu chở kho báu Champa??? Ch. Lemire đã mô tả các tháp cổ Champa được phân bố ở tỉnh Bình Định trong tác phẩm “Les Tours Kiames de la Province de Binh Dinh” (Sài Gòn 1980) như sau: “Trong các tháp có các tượng, rất có thể chúng bằng vàng hoặc bằng bạc, có mắt bằng ngọc và răng bằng kim cương. Chúng đã bị lấy mất ngay từ đầu. Những tượng bằng đá có thể bị lấy đi ngay sau đó. Người ta đã đào các bức tượng để bóc gỡ các tranh thánh đã được gắn vào đó. Các tháp Bạc (người Việt Nam quen gọi là tháp Bánh Ít) phô bày hàng loạt công trình đáng lưu ý, phần lớn các tượng đều bằng vàng hoặc bằng đá thếp vàng. Tượng cuối cùng che vòm đã được mang sang Pháp năm 1886. Gần 80 tấn đá chạm được dành cho Bảo tàng Lyon đã được tàu Mêkông chuyển về Pháp dưới sự coi sóc của Tiến sĩ Maurice. Tàu Mêkông bị đắm ở Hồng Hải và những người Somalis tưởng rằng đã tìm thấy kho báu nên đã đem vào bờ một số lớn những hòm nặng này, nhưng họ chỉ tìm thấy đá và đá…”Bức màn bí mật bao quanh số phận của con tàu Mêkông đã thách đố các nhà khoa học, giới săn lùng cổ vật và cả những kẻ hiếu kỳ hơn 100 năm. Trong số những người tìm cách sở hữu kho báu trên tàu Mêkông có giáo sư Robert Stenout (Pháp) và sau hơn 30 năm mày mò nghiên cứu ở hàng trăm thư viện, sở lưu trữ văn khố, các hải cảng, nhiều hãng tàu biển… Đến tháng 10.1995, R.Stenout đã khoanh vùng một cách chính xác vị trí mà tàu Mêkông bị đắm tại mũi Guadaqui ở biển Hồng Hải. Theo R.Stenout, Mêkông là một con tàu lớn được thiết kế với hai chức năng chở khách và chở hàng nhưng điều này không làm ảnh hưởng đến sự thanh nhã của nó. Những năm đầu thế kỷ, do còn hạn chế về kỹ thuật, hành trình Đông Dương-Pháp là một hành trình dài, mất nhiều ngày, nên Mêkông được xây dựng, bài trí hoàn hảo, sang trọng và nguy nga như một cung điện di động trên mặt biển. Chuyến tàu viễn dương định mệnh của tàu Mêkông vào năm 1906 chở theo 180 sĩ quan thủy thủ, 66 hành khách cùng với rất nhiều tấn cổ vật bằng và và một khoang bí mật chứa đầy hàng mà theo khảo sát ban đầu của đội thợ lặn thuộc tàu Scorpio do thuyền trưởng Campell chỉ huy (tàu Scorpio là con tàu mà Stenout sử dụng trong cuộc khai quật của mình) thì hàng trăm nghìn thoi vàng có trong khoang hàng bí mật này như huyền thoại về Mêkông đã lan truyền là có thật.Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau khi định vị được tàu Mêkông và kho báu bí mật thì nước có chủ quyền trên vùng lãnh hải mà tàu Mêkông bị đắm đã xảy ra một cuộc nội chiến khốc liệt, việc thu hồi kho báu trên tàu Mêkông đành dừng lại…kho báu mà tàu Mêkông có n/v đưa về Pháp chủ yếu được thu gom trên khu vực Vijaya từ Q.Nam đến B.Thuận và chắc chắn đây chưa phải là kho báu duy nhất của Champa.Tháp Champa được trang trí bằng vàng ròng:Theo một truyền thuyết thì trên chóp đỉnh của Tháp Đôi, cụm tháp gồm hai chiếc nằm ở TP. Quy nhơn có 2 quả cầu lớn làm bằng vàng ròng. Cả hai khối vàng này đã bị các thủy thủ người da trắng của một chiếc tàu châu Âu đến cướp đoạt và mang xuống tàu sau một cuộc tấn công chớp nhoáng. Người Champa cổ không quá đề cao giá trị của vàng và sử dụng chúng với khối lượng lớn một cách khá phổ biến trong các công trình kiến trúc đền tháp của mình. Có thể lý giải rằng đó là do dân tộc này được tạo hóa ưu đãi quyền sở hữu nhiều mỏ vàng có trữ lượng phong phú. Vàng được đem đi đúc tượng thần để thờ, đúc phù điêu và dát lên các tượng thờ để trang trí… Truyền thuyết cũng cho biết rằng người Champa sau khi dựng tượng vàng ở các đền tháp thường quét lên thân tượng một lớp sơn đặc chế. Kho báu Champa được nhắc đến từ khá lâu bởi các nhà khoa học Pháp. Kho báu cuối cùng, nơi lưu giữ những gì còn lại của Vương triều Champa đã được đề cập trong tác phẩm Un Royaume Disparu – Les Chams et Leur Art-1923 (Pháp). Sự giàu có đầy bí ẩn của Vương quốc Champa có thể đúng như các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố. Nhưng ngay cả khi sự thật không phải là như thế thì với việc thừa hưởng 14 quần thể tháp Champa cổ còn lại đến nay, có thể khẳng định rằng – Bình Định đang sở hữu một phần kho báu của nhân loại. Ngàn năm còn một chút này…Ở Tp. Quy Nhơn có 2 ngọn tháp đứng kề nhau, dân gian gọi là Tháp Đôi. Các tư liệu xưa còn ghi chép Tháp Đôi là tháp Hưng Thạnh. Vào ngày 10.7.1980, Tháp Đôi được nhà nước xếp hạng vào danh mục những di tích lịch sử-văn hóa quốc gia. Tháp Đôi được tiến hành trùng tu đầu tiên ở Bình Định và được các nhà nghiên cứu xếp vào loại di sản độc đáo của nghệ thuật kiến trúc Champa. So với các ngọn tháp khác trong tỉnh, trong vùng Tháp Đôi không hề giống bất kỳ một ngôi tháp cổ nào hiện có. Thế nhưng các nhà khoa học đến nay vẫn chưa tìm ra lý do khác thường nầy.
Tháp Đôi
xây dựng vào khoảng cuối thế XII.Cùng với di tích Tháp Đôi, chúng ta ngược lên
vùng “Tây Sơn hạ đạo”, để chiêm ngưỡng cụm tháp Dương Long.Ngày xưa người Pháp
gọi đây là “Tháp Ngà”, dân địa phương thì gọi là tháp An Chánh. Tháp Dương Long
có 3 tòa tháp cổ với chiều cao từ 29 đến 36 mét. Các hệ thống cửa giả phần lớn
đã bị sụp đổ, hư hỏng. Tuy vậy nhìn vào các tác phẩm điêu khắc còn sót lại giúp
ta liên tưởng đến những nghệ nhân Champa đã từng dày công sáng tạo một nền văn
hóa độc đáo. Nhiều nhà nghiên cứu hiện nay đã xác định niên đại của tháp vào
khoảng nửa sau thế kỷ 12. Đây là cụm di tích thứ 2 được Bộ văn hóa xếp hạng
cùng lúc với Tháp Đôi Quy Nhơn. Sau hai cụm Tháp Đôi và tháp Dương Long, là
tháp “Cánh Tiên” và tháp “Bánh Ít”. Tháp Cánh Tiên được người Champa xây dựng
ngay ở trung tâm thành Đồ Bàn, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, thị xã.An Nhơn,
tỉnh Bình Định
Được biết
vào tháng 11.2004 vừa qua, tháp Cánh Tiên đang được Chính phủ CHLB Đức tài trợ
100.000 Euro để trùng tu, khôi phục.
. Theo tài liệu của người Pháp thì tháp Cánh Tiên còn được
gọi là “Tháp Đồng”, nhưng vì sao có tên gọi nầy thì vẫn chưa xác định được nguồn
gốc
Tháp cao
khoảng 20 mét, trông xa giống như đôi cánh của nàng tiên trong chuyện cổ tích
đang bay lên trời xanh.
Khác với
các tháp Champa khác, tháp Cánh Tiên được xây dựng một phần bằng chất liệu đá
sa thạch, xung quanh có nhiều phù điêu chạm khắc tạo cho ngôi cổ tháp một dáng
vẻ độc đáo.
Khác với “Cánh Tiên”, cụm tháp“Bánh Ít” có đến 4 tòa tháp lớn nhỏ khác nhau. Gọi là tháp
Bánh Ít
bởi vì khi đứng xa trông cụm tháp giống như những chiếc bánh ít lá gai-một sản
vật thường thấy trong các dịp cúng lễ, giỗ chạp ở miền Trung.
Người Pháp gọi đây là “Tháp Bạc”. Tất cả đều nằm trên một đỉnh đồi thuộc địa phận xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, cách TP. Quy Nhơn khoảng 20 km.
Người Pháp gọi đây là “Tháp Bạc”. Tất cả đều nằm trên một đỉnh đồi thuộc địa phận xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, cách TP. Quy Nhơn khoảng 20 km.
Bốn ngôi
cổ tháp đều có các tượng thờ, hình vũ nữ đang múa, hình voi, hình các vị thần
linh. Kiểu trang trí làm cho ta có cảm giác như đang lạc vào thế giới thần bí
của người Champa cổ xưa.
Cũng tại
Bình Định còn có tháp Bình Lâm nằm ở xã Phước Hòa (Tuy Phước).
Người dân ở đây kể lại rằng: thôn Bình Lâm là nơi có những cư dân người Việt lần đầu tiên đến đây khai phá mở mang vùng đất phì nhiêu này. Trong hệ thống tháp Champa Bình Định, thì tháp Bình Lâm là nhóm tháp cổ có niên đại sớm nhất.Một cụm di tích khác có tên là tháp Thủ Thiện, còn gọi là “Tháp Đồng” hiện đang tồn tại ở xã Bình
Nghi (Tây
Sơn) nằm bên Quốc lộ 19. Năm 1995 ngọn tháp nói trên được xếp hạng di tích Nhà
nước. Tuy vậy, cũng giống như các cụm di tích tháp Champa khác ở Bình Định,
ngọn tháp Thủ Thiện hiện đang bị đổ nát nghiêm trọng. Nhiều di tích, cấu trúc
của ngọn tháp đã bị thời gian và con người phá hủy. Di tích cuối cùng được xếp
hạng cùng lúc với tháp Thủ Thiện là tháp Phú Lốc
Người
Pháp đặt tên là “Tháp Vàng”. “Phú Lốc” nằm giáp giới giữa 2 huyện An Nhơn và
Tuy Phước. Tháp nằm trên đỉnh một quả đồi cao 76 mét so với mực nước biển.
Ngọn tháp
đã bị đổ nát khá nhiều, tuy vậy nhìn một cách tổng quát vẫn thấy được dáng vẻ
bề thế, uy nghi của một công trình kiến trúc cổ. Ngoài 7 cụm tháp ở Bình Định
đã được Nhà nước xếp hạng, hiện nay vẫn còn một số di tích tháp cổ khác chỉ còn
chân đế, hoặc đã bị sụp đổ do người dân đào bới tìm vàng, trong đó có tháp “Hòn
Chuông” ở huyện Phù Cát.Hải Giang – một ốc đảo chỉ rộng khoảng 1,2km² thuộc xã Nhơn Hải, Quy Nhơn có ngôi cổ tự nằm trong dãy núi Phương Mai, tên gọi là “chùa Linh Sơn”; ngôi chùa tọa lạc trên một triền núi bằng phẳng.
Anh Đặng Thanh Dũng – cán bộ lãnh đạo xã Nhơn Hải kể rằng, pho tượng Phật Lồi này đã có mặt từ rất lâu ở chùa Linh Sơn. Dù cách Quy Nhơn chỉ khoảng dăm ba hải lý đường biển, thế nhưng ít được các cấp ngành quan tâm đầu tư, giữ gìn, tôn tạo… Những thông tin ấy đã lý giải với tôi vì sao chùa Linh Phong đến nay gần như là một ngôi chùa hoang. Trong chùa không có sư sãi; Người dân trong thôn từ nhiều năm nay đã giao phó cho ông Đoàn Nghiệp (69 tuổi), chuyên lo việc hương khói. Ông Nghiệp là người giữ chìa khóa Chùa. Ai muốn lên chùa cúng bái, thăm thú pho tượng tu sĩ này đều phải đến tìm ông, nhờ dẫn đường lên núi, mở khóa nhà chùa mới vào bên trong được.
Những chuyện lạ về pho tượng Chăm cổ
Nhiều người trong thôn có vẻ rất am hiểu “lý lịch” pho tượng tu sĩ ở chùa Linh Sơn. Họ kể vào khoảng năm 1999, tại đảo Hải Giang xuất hiện một nhóm người lạ đến săn tìm đồng đen. Một đêm cả bọn khoảng 4 năm tên đã lẻn vào trong ngôi chùa, phá khóa gian thờ chính diện – nơi có pho tượng Phật Lồi, sau đó định khiêng tượng xuống núi, đưa về Quy Nhơn. Thấy pho tượng lạ, có màu đen bóng như than, chúng nghĩ là đồng đen.
Người dân địa phương không biết chùa được xây dựng từ khi nào, chỉ biết nó đã tồn tại ở đây từ rất lâu. Hiện trong gian chính diện đang thờ pho tượng một tu sĩ Hời (Chăm), toàn thân được tạc bằng đá màu đen rất lạ, pho tượng cổ cho ta một cảm giác kỳ bí, lạ lẫm, thiêng liêng…
Đi thăm tượng tu sĩ đen
Đi thăm tượng tu sĩ đen
Con đường trải thảm bê tông chạy ven biển Quy Nhơn, cùng với chiếc cầu vượt biển Thị Nại hiện đã nối liền Quy Nhơn với 3 xã bán đảo Nhơn Lý; Nhơn Hội; Nhơn Hải. Đường ra đảo Nhơn Hải tuyệt đẹp đã thôi thúc chúng tôi làm một chuyến vượt đầm Thị Nại ra thăm pho “tượng Phật lồi” ngàn tuổi ở đảo Hải Giang nằm bên kia dãy núi Phương Mai…
Từ Trung tâm xã bán đảo Nhơn Hải, chúng tôi nhờ người thuê giúp một chiếc ghe máy nhỏ của ngư dân để đến Hải Giang – nơi có ngôi chùa Linh Sơn và pho tượng Phật lồi ngàn tuổi. Phải mất đến 30 phút chạy thuyền máy, vượt qua những con sóng hung hãn, vỗ liên tục vào mạn thuyền tung bọt trắng xóa, anh ngư dân trẻ chạy thuyền men theo các vách núi. Từ dưới lòng biển sâu dãy núi Phương Mai như đang trồi lên càng lúc càng vươn cao lừng lững, con thuyền nhỏ luồn lách giữa các khối đá ngầm trên biển Hải Giang, vượt qua “Mũi Yến” mất chừng 15 phút, chúng tôi đã nhìn thấy một làng biển xuất hiện phía xa… Đó là làng chài Hải Giang.
Từ Trung tâm xã bán đảo Nhơn Hải, chúng tôi nhờ người thuê giúp một chiếc ghe máy nhỏ của ngư dân để đến Hải Giang – nơi có ngôi chùa Linh Sơn và pho tượng Phật lồi ngàn tuổi. Phải mất đến 30 phút chạy thuyền máy, vượt qua những con sóng hung hãn, vỗ liên tục vào mạn thuyền tung bọt trắng xóa, anh ngư dân trẻ chạy thuyền men theo các vách núi. Từ dưới lòng biển sâu dãy núi Phương Mai như đang trồi lên càng lúc càng vươn cao lừng lững, con thuyền nhỏ luồn lách giữa các khối đá ngầm trên biển Hải Giang, vượt qua “Mũi Yến” mất chừng 15 phút, chúng tôi đã nhìn thấy một làng biển xuất hiện phía xa… Đó là làng chài Hải Giang.
Hải Giang hiện là một đơn vị hành chính cấp Thôn, trực thuộc xã đảo Nhơn Hải, vì có địa thế một bên là núi cao và một bên là biển xanh (không có đường bộ), nên chúng tôi gọi đây là một ốc đảo. Dân cư làng chài quanh năm sống tách biệt với dân thành phố vì điều kiện giao thông cách trở. Trên đảo tuyệt nhiên không nghe hoặc thấy bất cứ một phương tiện xe cơ giới nào chuyển động. Nghĩa là ở đây không có ô tô; không có xe máy và không có cả… xe đạp!
Vị cán bộ thôn cho biết, toàn thôn Hải Giang hiện có khoảng 125 hộ gia đình, với hơn 500 nhân khẩu. Trên đảo chỉ có gần trăm nóc nhà, hầu hết đều là nhà xây cấp 4 nằm dọc theo cồn cát ven biển, phía sau lưng là ngọn núi Phương Mai vươn mình ra hai mặt một giáp với biển – một hướng về thành phố Quy Nhơn. Dãy núi này tạo ra một thung lũng bao bọc làng chài nhỏ bên dưới.
Vị cán bộ thôn cho biết, toàn thôn Hải Giang hiện có khoảng 125 hộ gia đình, với hơn 500 nhân khẩu. Trên đảo chỉ có gần trăm nóc nhà, hầu hết đều là nhà xây cấp 4 nằm dọc theo cồn cát ven biển, phía sau lưng là ngọn núi Phương Mai vươn mình ra hai mặt một giáp với biển – một hướng về thành phố Quy Nhơn. Dãy núi này tạo ra một thung lũng bao bọc làng chài nhỏ bên dưới.
Người dân trên đảo rất hiếu khách, nghe chúng tôi hỏi đường lên “chùa Phật Lồi” (chùa Linh Sơn) ai cũng nhiệt tình hướng dẫn, thậm chí một số thanh thiếu niên đang chơi đùa cũng sẵn sàng bỏ cuộc vui, làm tình nguyện viên dẫn đường cho chúng tôi, chúng tôi có cảm giác nhờ môi trường sống tốt nên thanh thiếu niên ở đây hiền và tốt bụng hơn trên phố Quy Nhơn…
Pho tượng Chăm bị “quên”
Vốn là một làng chài nhỏ, diện tích khoảng 120 héc ta, nhưng đã nhiều năm nay thôn Hải Giang nằm trong vùng quy hoạch của tỉnh. Nghe đâu Bình Định đang có chủ trương liên kết với một số nhà đầu tư nước ngoài để biến Hải Giang thành một khu du lịch sinh thái, vui chơi giải trí đặc biệt. Hải Giang từ lâu đã được ghi tên vào lộ trình phát triển tổng thể của khu Kinh tế – Công nghiệp – Thương mại – du lịch Quy Nhơn – Nhơn Hội. Tại đây nghe đồn nhà nước sẽ cho xây dựng một Casinô quốc tế và nhiều dịch vụ du lịch biển hấp dẫn khác dành cho khách du lịch nhà giàu từ nước ngoài đến vui chơi, giải trí và tắm biển. Tuy vậy các dự án tuyệt vời này đến nay vẫn đang “treo” đâu đó ở trên…
Pho tượng Chăm bị “quên”
Vốn là một làng chài nhỏ, diện tích khoảng 120 héc ta, nhưng đã nhiều năm nay thôn Hải Giang nằm trong vùng quy hoạch của tỉnh. Nghe đâu Bình Định đang có chủ trương liên kết với một số nhà đầu tư nước ngoài để biến Hải Giang thành một khu du lịch sinh thái, vui chơi giải trí đặc biệt. Hải Giang từ lâu đã được ghi tên vào lộ trình phát triển tổng thể của khu Kinh tế – Công nghiệp – Thương mại – du lịch Quy Nhơn – Nhơn Hội. Tại đây nghe đồn nhà nước sẽ cho xây dựng một Casinô quốc tế và nhiều dịch vụ du lịch biển hấp dẫn khác dành cho khách du lịch nhà giàu từ nước ngoài đến vui chơi, giải trí và tắm biển. Tuy vậy các dự án tuyệt vời này đến nay vẫn đang “treo” đâu đó ở trên…
Anh Đặng Thanh Dũng – cán bộ lãnh đạo xã Nhơn Hải kể rằng, pho tượng Phật Lồi này đã có mặt từ rất lâu ở chùa Linh Sơn. Dù cách Quy Nhơn chỉ khoảng dăm ba hải lý đường biển, thế nhưng ít được các cấp ngành quan tâm đầu tư, giữ gìn, tôn tạo… Những thông tin ấy đã lý giải với tôi vì sao chùa Linh Phong đến nay gần như là một ngôi chùa hoang. Trong chùa không có sư sãi; Người dân trong thôn từ nhiều năm nay đã giao phó cho ông Đoàn Nghiệp (69 tuổi), chuyên lo việc hương khói. Ông Nghiệp là người giữ chìa khóa Chùa. Ai muốn lên chùa cúng bái, thăm thú pho tượng tu sĩ này đều phải đến tìm ông, nhờ dẫn đường lên núi, mở khóa nhà chùa mới vào bên trong được.
Những chuyện lạ về pho tượng Chăm cổ
Nhiều người trong thôn có vẻ rất am hiểu “lý lịch” pho tượng tu sĩ ở chùa Linh Sơn. Họ kể vào khoảng năm 1999, tại đảo Hải Giang xuất hiện một nhóm người lạ đến săn tìm đồng đen. Một đêm cả bọn khoảng 4 năm tên đã lẻn vào trong ngôi chùa, phá khóa gian thờ chính diện – nơi có pho tượng Phật Lồi, sau đó định khiêng tượng xuống núi, đưa về Quy Nhơn. Thấy pho tượng lạ, có màu đen bóng như than, chúng nghĩ là đồng đen.
Người dân trên đảo kể rằng, đêm ấy bọn ăn trộm cố sức khiêng pho tượng đi, dù pho tượng trông chỉ nặng khoảng vài trăm ký, nhưng chỉ di chuyển được vài mét rồi không tài nào khiêng được nửa. Pho tượng Chăm nhỏ bé bổng trở nên rất nặng, cả bọn cùng hợp sức cũng không tài nào nhấc tượng Phật lên nổi.
Theo người dân ở thôn Hải Giang, sau khi không đưa được pho tượng cổ xuống thuyền, bọn trộm đã dùng búa chặt đứt đầu bức tượng tu sĩ để xem phía bên trong có kim loại đồng đen hay không, sau khi thấy tượng chỉ toàn làm bằng đá đen, bọn chúng đã thất vọng bỏ đi. Một thời gian ngắn sau đó, từng tên trộm hôm ấy đã lần lượt gặp nạn và chết thê thảm (!). Người thì đánh cá bằng mìn bị quả mìn nổ ngay trên tay; kẻ khác thì bị tai nạn giao thông chết mất mạng… Người dân thôn Hải Giang khẳng định với chúng tôi rằng đó chính là sự trừng phạt của “ngài” với bọn trộm, do xúc phạm đến ngài…
Họ cũng kể rằng, vào khoảng năm 1945, khi quân đội phát xít Nhật thất bại trong chiến tranh thế giới thứ II, ở Việt Nam chúng cũng chuẩn bị rút quân về nước, tại Quy Nhơn lúc ấy có một viên sĩ quan thuộc quân đội Nhật nghe tin tại chùa Linh Sơn – Hải Giang có một tượng Phật màu đen bóng rất kì lạ, y liền dẫn theo một toán lính đi thuyền sang, rồi lên chùa định mang bức tượng về Nhật. Có lẽ viên sĩ quan này cũng đã nghĩ rằng bức tượng tu sĩ Chăm được đúc bằng đồng đen.
Theo người dân ở thôn Hải Giang, sau khi không đưa được pho tượng cổ xuống thuyền, bọn trộm đã dùng búa chặt đứt đầu bức tượng tu sĩ để xem phía bên trong có kim loại đồng đen hay không, sau khi thấy tượng chỉ toàn làm bằng đá đen, bọn chúng đã thất vọng bỏ đi. Một thời gian ngắn sau đó, từng tên trộm hôm ấy đã lần lượt gặp nạn và chết thê thảm (!). Người thì đánh cá bằng mìn bị quả mìn nổ ngay trên tay; kẻ khác thì bị tai nạn giao thông chết mất mạng… Người dân thôn Hải Giang khẳng định với chúng tôi rằng đó chính là sự trừng phạt của “ngài” với bọn trộm, do xúc phạm đến ngài…
Họ cũng kể rằng, vào khoảng năm 1945, khi quân đội phát xít Nhật thất bại trong chiến tranh thế giới thứ II, ở Việt Nam chúng cũng chuẩn bị rút quân về nước, tại Quy Nhơn lúc ấy có một viên sĩ quan thuộc quân đội Nhật nghe tin tại chùa Linh Sơn – Hải Giang có một tượng Phật màu đen bóng rất kì lạ, y liền dẫn theo một toán lính đi thuyền sang, rồi lên chùa định mang bức tượng về Nhật. Có lẽ viên sĩ quan này cũng đã nghĩ rằng bức tượng tu sĩ Chăm được đúc bằng đồng đen.
Tuy vậy khi sai lính khiêng đi thì bức tượng bổng trở nên nặng một cách kỳ lạ, không thể di chuyển được (!). Viên sĩ quan Nhật rất tức giận, la hét, sau đó tuốt kiếm chém đứt một phần chiếc mũi của pho tượng rồi đành về không. Hiện nay vết chém sứt mũi ấy vẫn còn dấu tích (xem ảnh)… còn chuyện bọn trộm ở Quy Nhơn chặt đầu tượng để tìm đồng đen, sau đó đã được người dân làng chài tìm cách nối lại để tiếp tục thờ cúng cho đến tận hôm nay…
Theo như Nước Non Bình Định của Quách Tấn: “Dưới chân Hòn Mai có một bàu nước ngọt khá rộng và một ngôi chùa cổ. Chùa thờ một tượng Phật bằng đá xanh cao lớn bằng hình người. Phía sau lưng tượng có một hàng chữ bùa. Tượng này người địa phương tìm thấy ở dưới mé bàu. Truyền rằng xưa kia tượng ở tận ngoài Lao Xanh (Pou-lo-Gam-bir). Một hôm tự nhiên biến mất. Nhân dân tìm mãi không thấy. Sau nghe người Phương Mai được tượng Phật, bèn tới nhìn thấy quả là tượng Phật của mình, mới đòi lại. Nhưng hàng trăm người xúm khiêng mà giở lên không nổi, đành phải cúng lại cho người Phương Mai.”
Theo như Nước Non Bình Định của Quách Tấn: “Dưới chân Hòn Mai có một bàu nước ngọt khá rộng và một ngôi chùa cổ. Chùa thờ một tượng Phật bằng đá xanh cao lớn bằng hình người. Phía sau lưng tượng có một hàng chữ bùa. Tượng này người địa phương tìm thấy ở dưới mé bàu. Truyền rằng xưa kia tượng ở tận ngoài Lao Xanh (Pou-lo-Gam-bir). Một hôm tự nhiên biến mất. Nhân dân tìm mãi không thấy. Sau nghe người Phương Mai được tượng Phật, bèn tới nhìn thấy quả là tượng Phật của mình, mới đòi lại. Nhưng hàng trăm người xúm khiêng mà giở lên không nổi, đành phải cúng lại cho người Phương Mai.”
Cũng theo Quách Tấn: “Những năm có bệnh dịch, bệnh tả, thì tượng Phật tự nhiên đổ mồ hôi. Người địa phương lấy son thoa nơi lưng Phật, lấy giấy vàng in những hàng chữ bùa, đem về dán nơi nhà và đốt uống với nước lã. Người có bệnh lành bệnh, người không bệnh tránh khỏi bệnh”. Và tục này vẫn giữ cho đến ngày nay, cứ mỗi Tết đến người dân ở đây và bên xã Nhơn Hải với một niềm tin tươi sáng như thế đều qua đây lấy bùa.
Bí mật pho tượng Chăm cổ
Theo mô tả của các nhà nghiên cứu thì đây là một bức tượng Chàm cổ xưa được tạc bằng đá núi. Tượng có chiều cao 0,82m, rộng 0,46m. Nghệ nhân Chămpa thể hiện dưới dạng một tu sĩ ngồi trong tư thế thiền, khuôn mặt trầm tư, tay trái đặt lên đùi, tay phải cầm tràng hạt, mình trần, thân đeo một mảnh vải vắt chéo qua vai trái. Trên lưng tượng có một sợi dây thắt lưng bằng kim loại. Vị tu sĩ ngồi trong tư thế nhìn thẳng, khuôn mặt trái xoan, cằm nhọn và bộ ria mép rất dày.
Trên đầu tượng Phật Lồi đội một chiếc mũ trụ cao, phía trước mũ có ghi một câu thần chú bằng tiếng Chăm cổ xưa, ở chính giữa trán tượng có 3 vạch ngang nằm song song. Tay vị tu sĩ đeo một chiếc vòng hình tròn. Tượng được gắn chặt với một tấm bia đá ở phía sau lưng, trên tấm bia này có khắc một bài kí với 11 dòng chữ bằng tiếng Chămpa cổ, cho đến nay chưa có nhà nghiên cứu nào giải mã được các dòng chữ bí ẩn nói trên (xem ảnh). Cũng theo các nhà nghiên cứu thì đây là một pho tượng Phật mang phong cách Chăm muộn còn sót lại duy nhất được phát hiện ở khu vực miền Trung Việt Nam.
< 11 dòng chữ lạ ở tấm bia gắn sau lưng pho tượng.
Theo tài liệu khảo cổ ở Bình Định, nguồn gốc pho tượng Phật Lồi ở chùa Linh Phong là do ngày trước có một số nông dân trong lúc đang canh tác trên núi Phương Mai đã phát hiện. Pho tượng kì lạ được mang về hiến cho nhà chùa. Người dân Nhơn Hải từ khi có được pho tượng kì lạ này đã đặt tên mới cho chùa Linh Sơn là chùa “Phật Lồi”. – Người dân quan niệm tượng Phật đào được từ dưới lòng đất thường rất linh thiêng (!), vì vậy pho tượng tu sĩ lạ này đã làm tăng thêm tính chất thiêng liêng của ngôi cổ tự trên núi đảo Hải Giang…
Đất võ Bình Định ngàn năm trước từng là kinh đô của vương quốc Chăm-Pa, hiện ở đây vẫn còn lưu lại dấu tích của một nền văn minh cổ đã bị mai một. Những cuộc khai quật tự phát của cư dân địa phương và của các cơ quan văn hóa, bảo tàng trong hàng chục năm nay đã phát hiện nhiều di vật Chăm cổ. Cư dân địa phương trong lúc canh tác đã tình cờ tìm thấy những buồng cau, lá trầu và những vật dụng thờ cúng bằng vàng.
Bí mật pho tượng Chăm cổ
Theo mô tả của các nhà nghiên cứu thì đây là một bức tượng Chàm cổ xưa được tạc bằng đá núi. Tượng có chiều cao 0,82m, rộng 0,46m. Nghệ nhân Chămpa thể hiện dưới dạng một tu sĩ ngồi trong tư thế thiền, khuôn mặt trầm tư, tay trái đặt lên đùi, tay phải cầm tràng hạt, mình trần, thân đeo một mảnh vải vắt chéo qua vai trái. Trên lưng tượng có một sợi dây thắt lưng bằng kim loại. Vị tu sĩ ngồi trong tư thế nhìn thẳng, khuôn mặt trái xoan, cằm nhọn và bộ ria mép rất dày.
Trên đầu tượng Phật Lồi đội một chiếc mũ trụ cao, phía trước mũ có ghi một câu thần chú bằng tiếng Chăm cổ xưa, ở chính giữa trán tượng có 3 vạch ngang nằm song song. Tay vị tu sĩ đeo một chiếc vòng hình tròn. Tượng được gắn chặt với một tấm bia đá ở phía sau lưng, trên tấm bia này có khắc một bài kí với 11 dòng chữ bằng tiếng Chămpa cổ, cho đến nay chưa có nhà nghiên cứu nào giải mã được các dòng chữ bí ẩn nói trên (xem ảnh). Cũng theo các nhà nghiên cứu thì đây là một pho tượng Phật mang phong cách Chăm muộn còn sót lại duy nhất được phát hiện ở khu vực miền Trung Việt Nam.
< 11 dòng chữ lạ ở tấm bia gắn sau lưng pho tượng.
Theo tài liệu khảo cổ ở Bình Định, nguồn gốc pho tượng Phật Lồi ở chùa Linh Phong là do ngày trước có một số nông dân trong lúc đang canh tác trên núi Phương Mai đã phát hiện. Pho tượng kì lạ được mang về hiến cho nhà chùa. Người dân Nhơn Hải từ khi có được pho tượng kì lạ này đã đặt tên mới cho chùa Linh Sơn là chùa “Phật Lồi”. – Người dân quan niệm tượng Phật đào được từ dưới lòng đất thường rất linh thiêng (!), vì vậy pho tượng tu sĩ lạ này đã làm tăng thêm tính chất thiêng liêng của ngôi cổ tự trên núi đảo Hải Giang…
Đất võ Bình Định ngàn năm trước từng là kinh đô của vương quốc Chăm-Pa, hiện ở đây vẫn còn lưu lại dấu tích của một nền văn minh cổ đã bị mai một. Những cuộc khai quật tự phát của cư dân địa phương và của các cơ quan văn hóa, bảo tàng trong hàng chục năm nay đã phát hiện nhiều di vật Chăm cổ. Cư dân địa phương trong lúc canh tác đã tình cờ tìm thấy những buồng cau, lá trầu và những vật dụng thờ cúng bằng vàng.
Nhiều tượng Chăm cổ có hình voi, bò, rắn, thủy quái… nằm dưới lòng đất từ hàng ngàn năm, đã được phát hiện, khai quật. Các công trình nghiên cứu sử học và khảo cổ học cho thấy, tỉnh Bình Định trước đây là một trong những địa phương thuộc cư dân tiền sử Sa Huỳnh và sau này là một trong những tiểu vùng của vương quốc Chămpa. Quy Nhơn cũng thuộc vùng đất Vijava (từ thế kỷ XI đến XV, từng là kinh đô của vương quốc Chămpa – (1000 – 1471).
Ở Bình Định có nhiều phế tích của tháp Chăm, một số giếng cổ hình vuông; rắn Naga; trụ văn bia; tượng thần điểu Garuđa; phù điêu Lăng Ông; khu mộ cổ, tượng tu sĩ…, có lẽ bức tượng lạ tại thôn Hải Giang – xã Nhơn Hải, thành phố Quy Nhơn cũng là một trong những di sản văn hóa Chăm độc đáo được người dân phát hiện từ lâu.
Tuy vậy, để hiểu hơn về những di sản cổ đại có một không hai này, có lẽ cần thêm nhiều thời gian và công sức để các nhà nghiên cứu tìm hiểu và phát hiện. Điều rất cần hiện nay đối với tất cả chúng ta chính là việc tạo các điều kiện tốt nhất để bảo vệ và tôn tạo những di sản quý hiếm ấy không những đối với chúng ta mà còn là di sản văn hóa của thế giới. Ngôi tháp này cùng nhiều tháp Champa khác đang chờ Nhà
nước trùng tu.Có thể nói rằng, 8 cụm tháp với tổng số 14 tòa tháp cổ còn lại
trên đất Bình Định được xem như một loại tài sản vô giá mà lịch sử đã ban tặng
cho miền Trung nước ta. Những bí ẩn về tháp Champa mặc dù đã được tìm hiểu
nghiên cứu từ cả chục năm nay, tuy vậy cũng chỉ là những nghiên cứu bên ngoài.
Chúng ta tin rằng còn khá nhiều điều kỳ lạ, nhiều huyền thoại lý thú cần làm
sáng tỏỞ Bình Định có nhiều phế tích của tháp Chăm, một số giếng cổ hình vuông; rắn Naga; trụ văn bia; tượng thần điểu Garuđa; phù điêu Lăng Ông; khu mộ cổ, tượng tu sĩ…, có lẽ bức tượng lạ tại thôn Hải Giang – xã Nhơn Hải, thành phố Quy Nhơn cũng là một trong những di sản văn hóa Chăm độc đáo được người dân phát hiện từ lâu.
Qui Nhơn 07/07/2007
Thanh Trà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét