2-Lịch sử champa theo truyền thuyết, ngôn ngữ học và sử
liệu
-Theo truyền thuyết: Trong dân gian Champa rằng: từ trong chốn hồng hoang,
dân tộc Champa sống rải rác thành nhiều nhóm khác nhau trong cảnh sống tiêu sơ
mộc mạc của thời Cổ Ðại. Trên thượng giới có một thần Nữ tuyệt thế giai nhân,
có nhiều quyền năng biến hóa đã giáng thế xuống vùng đất dân tộc Champa sinh
sống tại núi “Trầm Hương” người Champa gọi là “Chơk Ghlâu”
tức núi Ðại An Nha Trang tỉnh Khánh Hòa ngày nay. Nữ Thiên Thần này là Pô Inư
Nưgar – Tuy là Nữ Thần linh hiển và tài giởi phi phàm nhưng khi giáng trần, Pô Inư
Nưgar vẫn hành sử quyền năng theo phương cách thế tục. Là người Champa sinh ra
và lớn lên trong lòng dân tộc đã nghe mẹ ru bằng câu ca dao Champa từ lúc nằm
nôi và trầm mình trong môi trường văn hóa dân tộc, trong tín ngưỡng dân gian
champa, được nghe những câu chuyện “bất thành văn” nhưng truyền khẩu từ đời này
sang đời khác về việc dựng nước và giữ nước của người xưa v.v...có lẽ dân tộc
Champa trân trọng nhất là nhân vật truyền thuyết Pô Inư Nưgar một bậc “hiền
mẫu” của dân tộc Champa.
Bà ngao du sơn thủy,
quan sát toàn vùng dân cư Champa sinh sống. Bà chứng kiến tận mắt cảnh đời kham
khổ lầm than của vạn lớp dân Champa, Bà liền gom dân lại thành làng xóm, tổ
chức gia đình xã hội theo chế độ mẫu hệ, xây dựng non sông gấm vóc cho dân tộc
Champa. Bà dạy quần chúng về cách thức trồng lúa, lập hệ thống đê điền tưới
tiêu; hướng dẫn cư dân vùng biển đóng ghe đan lưới để hành nghề dánh cá và hòa
mình vào biển cả. Dạy dân chúng biết xây dựng nhà cửa, chỉ dạy dùng dược thảo
để chữa bệnh và phương cách cúng bái thần linh. Vừa khai hóa dân tộc, xây dựng
xã hội, vừa xây dựng một quốc gia nông nghiệp đơn thuần và sơ khai với một xã
hội ấm êm, thanh bình cho dân tộc. Vì Bà có công tạo dựng non sông gấm vóc
Champa, cai quản dân lành với tất cả tình thương của một người mẹ đối với con
cái, nên trong truyền thuyết dân gian Champa tôn xưng Pô Inư Nưgar là “Thần mẹ
của xứ sở” chứ không tôn xưng Bà là vua Champa. Pô Inư Nưgar có công khai hóa
dân tộc và tạo dựng ra non sông gấm vóc Champa, nên vào thế kỷ thứ IX Vua
Harivarruan I đã xây đền tháp và tạc tượng để thờ Bà, đó là Tháp Pô Inư Nưgar,
người Việt gọi là Tháp Thần Nữ Thiên Y Ana tọa lạc trên ngọn đồi gần xóm Bóng
và biển Nha Trang. Cũng trên đồi này trước đây hồi thế kỷ thứ 7 và thứ 8 có xây
02 cụm Tháp nữa và trong cụm Tháp này có một pho tượng bằng vàng. Năm 774, quân
binh Mã Lai quấy nhiễu vùng Kâuthara (Nha Trang) phá hủy ngọn Tháp và cướp đi
Tượng vàng quí giá này. Mười năm sau tức vào năm 784 ngôi Tháp bị phá hủy mới
được xây lại với pho tượng bằng đá chung quanh các tầng Tháp, ở mỗi gốc tường
của Tháp có hình vũ nữ Apsara và bò Thần Nandin. Những người dân sống chung
quanh đồi Tháp rất tin vào sự linh hiển của Nữ Thần Pô Inư Nưgar và thường hay
đến cúng bái mỗi khi họ muốn cầu xin những phước lành nào đó về việc làm ăn
sinh sống kể cả bệnh tật ốm đau. Ngoài quần thể Tháp Pô Inư Nưgar (Tháp Bà) Nha
Trang, tại một số địa phương khác cũng lập những miếu thờ Nữ Thần như các thôn
Hữu Ðức ở Huyện Ninh Phước, Thôn Bình Nghĩa thuộc Huyện Ninh Hải tỉnh Ninh
Thuận. Tại Bình Thuận có Thôn Lạc Trị thuộc Huyện Tuy Phong, thôn Quản Mía
thuộc huyện Bắc Bình; ngoài ra người ta còn thấy một số chùa người Hoa Kiều tại
các địa phương thuộc hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận có thờ Thần Nữ Thiên Y A
Na tức Pô Inư Nưgar Champa. Ðối với truyền thuyết về tổ tiên Champa do đâu mà
ra, cũng như truyền thuyết về ai có công khai hóa dân tộc và khai sáng ra đất
nước Champa tuy không phải là câu chuyện hoàn toàn có thật, không có chứng cứ
khoa học làm nền tảng, nhưng nó là bóng dáng của trình tự lịch sử dân tộc
Champa, là chất xúc tác làm cho mọi người đồng chủng quây quần về nguồn cội tổ
tiên, nó đem lại sự hợp nhất giữa tiền nhân và muôn ngàn thế hệ cùng màu da thớ
thịt nối tiếp, nó đem lại tính tự hào dân tộc làm cho con cháu quay về một mối. Theo sử Trung quốc (Lương thư) thì người lãnh đạo lập
ra Lâm Ấp (Lin-yi) là một thổ hào địa phương tên là Khu Liên. Trước đó những
người ở vùng này đã quấy vùng Nhật Nam dưới sự bảo hộ người Hán, Lương thư cũng
gọi dân ở Tượng Lâm là "bọn man di" Khu Liên. Cho nên từ Khu Liên có
thể không là tên một người mà là tên chuyển âm từ ngôn ngữ Đông Nam Á cổ, Khu
Liên - Kurung, có nghĩa là tộc trưởng, vua.
Trước hết ta hãy xem sử liệu Trung quốc sau đó các khám phá về bia ký ở Mỹ
Sơn và Trà Kiệu (Simhapura) còn sót lại để tìm hiểu về con người Lâm Ấp.
Mã Đoan Lâm (Ma Tuan-Lin), sử gia người Trung Hoa thế kỷ 13 viết về các dân
tộc phía Nam Trung quốc dựa vào sử của nhà Lương, Hán và Tùy đã miêu tả như sau
về những người và phong tục dân Lâm Ấp vào thế kỷ thứ 4. Đây có thể coi là tài
liệu cổ nhất và lý thú nhất về dân tộc học nói về người Đông Nam Á bằng tiếng
Hán. (Trích từ G. Coedes , dịch từ tiếng Hán ra Pháp rồi sang Anh ngữ từ bản
"Ethnographie des peuples etrangers a la Chine, ouvrage compose au XII Ie
siecle de notre ere, trans., Marquis d' Hervey, Geneva, 1883)
"Cư dân ở đây xây tường nhà bằng gạch nung, phết trên gạch là một lớp
vôi. Nhà được xây trên một nền hay sân gọi là kan-lan (chú thích: kan-lan tiếng
Chăm nghĩa là nền sân, hiện nay người Chăm gọi sân tháp Chăm là kan-lan). Cửa
nhà thường đặt ở hướng bắc, đôi khi ở phía đông hay tây không có một qui tắc
nhất định nào... Đàn ông và đàn bà không có một y phục nào khác ngoài một đoạn
vải ki-peh quấn quanh người (chú thích: từ Chăm). Họ khoét lổ bông tai để đeo
các vòng trang sức nhỏ. Những người có chức sắc đều đi chân đất. Những phong
tục này cũng được theo ở vương quốc Phù Nam và tất cả các vương quốc khác phía
xa quá Lâm Ấp. Vua đội nón cao trang trí với hoa màu vàng và chung quanh viền
nón được tỉa gọn với núm tua bằng lụa. Khi ra ngoài nhà vua cởi voi, đi trước
là các kèn tù và và trống, vua được che dưới một dù làm bằng vải ki-peh, chung
quanh là nô tì cầm cờ xí được làm bằng vải ki-peh.
Đám cưới lúc nào cũng được tổ chức vào ngày thứ tám của trăng. Chính người
con gái đi hỏi con trai, vì con gái được xem là chính yếu. Hôn nhân giữa những
người cùng họ bị ngăn cấm. Vũ khí của họ gồm có cung, tên, kiếm, giáo, và nỏ
làm bằng gổ tre.
Nhạc cụ họ dùng rất giống nhạc cụ của chúng ta : đàn tì bà, đàn bầu 5 giây,
sáo v.v… Họ cũng dùng kèn tù và và trống để báo hiệu cho dân chúng.
Họ có mắt to và sâu, mủi thẳng và cao, tóc quăn đen. Đàn bà buối tóc trên
đỉnh đầu thành hình như búa riều… (chú thích : đây đúng là người thuộc giống
Austronesia ở dọc quần đảo Malay, Indonesia..)
Nghi lễ tang của vua bắt đầu 7 ngày sau khi vua mất, còn các quan đại thần
thì 3 ngày sau khi mất, và người dân thường 1 ngày sau khi chết. Bất kể chức
tước của người mất, thi hài đều được bó lại cẩn thận, sau đó được mang đến bờ
biển hoặc bờ sông giữa nhạc trống và điệu múa, và được hỏa thiêu trên dàn củi.
Sau khi thi hài của vua được hỏa tán, xương cốt còn lại được bỏ vào hủ làm bằng
vàng và ném xuống biển. Còn xương cốt của các quan lại thì đựng trong hủ bạc và
ném xuống cửa sông. Với thường dân, hủ đất đựng cốt ném xuống sông là đủ (chú
thích: đây đúng là phong tục xưa của người Chăm indonesian với nguồn gốc văn
hoá sông, nước, biển)
Mã Đoan Lâm (Ma Tuan Lin) viết về người Lâm Ấp (Lin-yi) ở thế kỷ thứ 4
chứng tỏ cho ta thấy họ là người nói tiếng Indonesian và là tổ tiên của người
Champa hiện nay. Người Champa lúc này đã biết khai thác trầm hương, quế, ngà
voi (vùng họ cư ngụ rất nhiều voi), sừng tê, vàng..
Đặc biệt họ biết dùng cát trắng để nấu thuỷ tinh làm bát, đồ trang sức. Tất
cả các đặc sản vùng này đã có mang sang Trung Quốc trong những hành trình của
các sứ giả Chăm Lâm Ấp. Sử sách Trung Hoa gọi những thuỷ tinh này là "lưu
li" từ chữ Phạn sanscrit verula.
Thế thì bia ký có xác thực sử liệu Trung quốc như vậy không ở thế kỷ thứ 3
và 4?. Năm 1898, kiến trúc Mỹ Sơn được khám phá tình cờ bởi một người Pháp tên
O. Paris trong rừng ở một thung lũng hẹp. Nó đã hoang tàn qua bao thế kỷ. Điểm
lạ là sử ta từ đời Lê không nhắc đến thành phố cổ này, nó biến mất trong bóng
tối đến khi được khám phá. L. Finot và H. Parmentier, G. Coedes đã đến và
nghiên cứu tìm ra được bao văn tự bia ký trong vùng này và phụ cận Trà kiệu,
Đông Dương. Một trong những bia ký (thế kỷ 4) là bia nói về vua Bhadra varman
lập ra Mĩ-sơn và Trà Kiệu trên vùng đất mà người Chăm gọi là Amaravati (Quảng
nam). Đây là bia cổ nhất bằng tiếng Chăm hay bằng tiếng thổ ngữ Indonesian
trong thế giới người Indonesian. Bia nói về sùng bái vật thánh thiêng của nguồn
rạch hay giếng nước của vua. Điều này cho thấy vùng Amaravati (Quảng Nam) là
nơi cư ngụ của người nói tiếng Chăm ở thế kỷ thứ 4. Theo nhà khảo cổ Madeleine
Colani thì các giếng cổ, được tìm thấy nhiều ở Quảng Trị khám phá từ đầu thế kỷ
20 và các năm gần đây của các nhà khảo cổ Việt Nam, có nguồn gốc của dân Chăm
Indonesian.
Sử nước ta có nhắc tới vùng đất Việt Thường và dựa vào một số tài liệu Hán
của Trung Quốc. Như trong Đại Nam Nhất Thống Chí, nói về vùng Quảng Nam:
"Nguyên xưa là đất Việt-Thường Thị, đời Tần (246-207 trước Dương lịch),
thuộc về Tượng quận, đời Hán (206-1trước dương lịch, 1-129 sau dương lịch)
thuộc quận Nhật Nam"
Theo Hán thư: quận Nhật Nam có huyện Lư Dung và Châu Ngô. Ở Lư Dung có bến
nước Lượm vàng, theo truyền thuyết tại Sông Tranh và Sông Tu thuộc đạo Trà Nộ
phủ Thăng Bình thường có sản xuất vàng. Vậy thì từ 2 thế kỷ trước Dương lịch
cho đến thế kỷ 4 (khi Lâm Ấp là dân tộc Chăm Indonesia chủng Austronesian), đất
Việt-Thường hay Tượng Lâm có những dân tộc nào ở đó?.
Theo sử Trung quốc, thì sau Khu Liên, các vua kế tiếp của Lâm Ấp là Phạm
Hùng (Fan Hsiung), Phạm Dật (Fan Yi), Phạm Văn (Fan Wen), Phạm Phật (Fan Fo,
sau này theo bia ký thì đó là Bhadra varman) và Phạm Tu Đạt (Fan Hu-ta). Dưới
thời Phạm Hùng, Phạm Dật và Phạm Văn sứ Lâm Ấp đã dung "chữ viết Hồ"
(tức chỉ Ấn độ chử Phạn) trong văn thư. Điều này chứng tỏ ảnh hưởng từ phía Phù
Nam và Nam Chăm.
Riêng Phạm Văn, cố vấn cho Phạm Dật, một số sử liệu Trung quốc có nói là
người Hán từ Giang Châu. Theo Coedes thì Phạm Văn là người Lâm Ấp sống ở Trung
quốc từ năm 313 đến 316 và đã hấp thụ văn hóa Hán chứ không phải là người Hán.
Trước khi Khu Liên thành lập nước Lâm Ấp (năm 192), thì trước đó vào năm
137, vùng Tượng Lâm đã bị xâm lăng bởi những người xứ phía Nam biên giới Nhật
Nam. Theo Coedes thì giặc "man di" đó nếu không là Champa thì là cũng
những người chủng tộc Indonesian.
Các vị vua trên chắc chắn không phải là họ Phạm mà là Hán phiên âm của chử
địa phương. Rất có thể đó là phiên âm của từ Pô hay Pha. Pô tiếng Chăm
Indonesian là chúa, vua hay lạc trưởng (như Po Nagara).
Như vậy có thể nói là từ giữa thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 4 thì vùng đất sử
ta gọi là Việt-Thường cơ bản là nơi người Chăm Austronesian cư ngụ. Trước đó,
rất có thể là những bộ lạc Môn-Khmer, Mường… đã bị người Chăm đẩy lùi và tiêu
diệt.
Hiện nay ở vùng xứ Quảng trên các cao nguyên có các dân tộc Mon-Khmer như
Vân Kiều, Pa kô, Tà ôi… vẫn còn cư trú, trên Tây Nguyên Nam Trung bộ, người Gia
Rai, Rhade của chủng Austronesian xưa vẫn còn và có ít ảnh hưởng từ Chăm
Austronesian.
Trên đất nước
Champa cổ trước đây đã xẩy ra nhiều cuộc chiến khốc liệt; khi trường kỳ, lúc âm
thầm, có khi chớp nhoáng với Trung Hoa, Ðại Việt, Châu Lạp, Java (Nam Dương),
Mông Cổ, nhất là những cuộc chiến trường kỳ giữa trung quốc và Champa vào năm
605 đoàn quân viễn chinh Trung Hoa, dưới sự Tổng chỉ huy của Tướng Lưu Khương
sang xâm chiếm Champa đánh phá Khú Túc (vùng Thừa Thiên) và Kinh Thành Trà Kiệu
(Quảng Nam), tàn phá kinh thành cướp bốc tài sản và thiêu hủy tất cả những tài
liệu chính sử từ ngày đầu lập quốc và những cuộc chiến kế tiếp với các quốc gia
nêu trên đã biến những trung tâm văn khố, sử liệu Champa thành đống tro tàn.
Do đó muốn tìm
hiểu tiến trình lập quốc Champa từ cội nguồn cho đến ngày sung vong, các nhà
nghiên cứu khoa học phải bằng vào những sử liệu thành văn của một số quốc gia
lân cận có liên quan với Champa trước đây như Trung Hoa, Ấn Ðộ, Ðại Việt, Châu
Lạp và những thành tựu khoa học về ngành ngôn ngữ học, về khảo cổ học để soi
sáng.
- Theo ngôn ngữ
học: Các nhà khoa học Tây Phương nghiên cứu về cội nguồn dân tộc Champa theo
phương diện ngôn ngữ học, đã xếp loại dân tộc champa thuộc nhóm gia đình ngữ
học Mã Lai đa đảo (Malayo Polynesian) hay một danh xưng khác gọi là nhóm gia
đình ngôn ngữ Nam đảo (Austronesian). Nhóm ngữ hệ Mã Lai Ða đảo bao gồm mấy
trăm ngôn ngữ tập trung trong một khoản không gian rộng lớn bao gồm các ngôn
ngữ lục địa Ðông Nam Á – Mã Lai và Champa, toàn bộ ngôn ngữ Phi Luật Tân và cả
ngôn ngữ của Madagascar ngoài khơi Châu Phi.
Vì cùng nhóm
với ngữ hệ Nam đảo (Austronesian) nên ngôn ngữ Mã Lai và ngôn ngữ Champa có
nhiều tiếng rất tương đồng với nhau và nhất là đã có một quá trình giao lưu văn
hóa và bang giao lịch sử trước đây khi Champa chưa mất tên trên địa bàn sinh
hoạt chính trị Ðông Dương.
Trên lãnh địa
của Vương Quốc Champa cổ, tức miền Trung của Việt Nam ngày nay, tiếng champa và
các sắc tộc Hroi, Raglai, Churu, Jarai Radhé, Banar, Stieng v.v... thuộc hệ ngữ
Nam đảo hay là Mã Lai Ða đảo (Malayo – Polynesian) và được khoa ngôn ngữ học
gọi chung là nhánh ngôn ngữ champa (The Chamic Langreceges). Trong nhánh ngôn
ngữ này lại chia thành hai nhánh:
-Nhánh thứ nhất
gồm ngôn ngữ Chăm, Hroi, Raglai, Churu một nhánh phía Nam Champa.
-Nhánh thứ hai
gồm Radhé, Jarai, Banar, Koho là nhánh phía Bắc thuộc lãnh địa Champa.
Sự phân chia
ngữ hệ Nam đảo của các sắc tộc tại Champa thành hai dòng Nam Bắc này, cho chúng
ta thấy phù hợp truyền thuyết về nguồn gốc hình thành quốc gia Champa từ hai
thị tộc khác nhau:
-Thị tộc Nam
còn gọi là dòng Cau (Pinăng), người Champa gọi là “Tâu Thih”; trong bia ký Phạn
ngữ ghi là Kramuka Vams’a.
-Thị tộc Bắc
còn gọi là dòng Dừa (Liu), người Champa gọi là “Tâu Chơk”, trong bia ký Phạn
ngữ ghi: Narikela Vams’a. Hai thị tộc Bắc Nam, người Champa gọi là “Tâu Chơk” và
Tâu Thih ngày nay người ta còn tìm thấy xuất hiện trong lễ hội múa lớn gọi là “Rija
Praung” của người Champa ngày nay.
Qua những sự
kiện trên, khoa Ngôn ngữ học đã gợi mở cho ta thấy cội nguồn lập quốc Champa
khởi đầu, gồm hai thị Tộc trấn thủ 2 vùng khác nhau bất hòa với nhau trước khi
đem đến một quốc gia Champa Thống Nhất và ổn định.
- Theo sử liệu Trung Hoa:
Theo sách Thủy kinh chú, Lịch sử
Champa là một lịch sử chinh chiến oai hùng với các lân bang từ khi lập quốc.
Xem lại sử ta thấy rằng năm 111 trước CN vua Vũ-đế nhà Hán sai Lộ Bác Đức và
Dương Bộc sang diệt nhà Triệu lấy nước Nam Việt đổi lại thành Giao chỉ bộ, và
chia ra làm 9 quận mà 3 quận phía nam là Giao-chỉ, Cửu-chân và Nhật-nam bao gồm
đất Bắc Việt và bắc Trung Việt ngày nay, mở đầu thời kỳ Bắc thuộc của nước ta.
Sách Khâm Định Việt Sử chép rằng phía nam quận Nhật-nam có huyện Tượng-lâm
(khỏang Trà Kiệu, tỉnh Quảng Nam bây giờ), vào năm 102 đời vua Hòa-đế nhà Đông
Hán, người huyện ấy cứ hay sang cướp phá quận Nhật-nam. Đến cuối đời nhà Hán,
khoảng năm 192 ở huyện Tượng lâm có người tên Khu-Liên giết huyện lệnh đi rồi
tự xưng làm vua, đặt tên nước là Lâm Ấp (Lin Yi: Ấp của dân Tượng lâm). Thực ra
chữ Khu-Liên không phải là tên, mà là tiếng xưng tụng như "thủ lãnh".
Dòng dõi Khu-Liên thất truyền nên cháu ngoại là Phạm-Hùng (ta dịch âm từ Fan
Hiong trong sử Tàu; mà Fan lại âm theo Varman của tiếng Chàm) lên nối nghiệp
Ban đầu thì lãnh thổ Lâm Ấp còn gọi
là Indrapura, vùng từ phía nam đèo Ngang cạnh sông Gianh, đến hết vùng
Amaravati (Quảng nam ngày nay). Tiếp đến trở xuống là các vùng tự trị của các
tiểu vương như Vijaya (Bình định), Aryaru (Phú yên), Kauthara (Khánh hòa) và
Panduranga (Bình và Ninh thuận). Có nhiều tác giả cho là lãnh thổ của Lâm-Ấp
bấy giờ chỉ đến đèo Hải Vân mà thôi. Điều này không đúng, bởi vì những bia ký ở
thánh địa quan trọng Mỹ sơn - Srisanabhadresvara (nằm cách Đà nẵng hiện nay về
hướng tây nam khoảng 70 km) đã ghi là thánh địa thờ thần Bhadresvara, là thần
chủ giang sơn Chàm, do vua Lâm Ấp là Phạm Phật (Bhadra varman, trị vì từ 349 -
361) dâng cúng. Nhiều bia đá ở Mỹ Sơn cho biết khá nhiều về giai đoạn lịch sử
ban đầu của Lâm Ấp.
Theo thời gian, Phù Nam (Fu-nan),
một vương quốc ở phương nam hoàn toàn theo văn minh Ấn Độ - tồn tại từ thế kỷ
thứ nhất đến thế kỷ thứ 6 tại vùng đồng bằng sông Cữu Long bây giờ, đã từng
triều cống Trung Hoa trong khoảng thời gian từ năm 253 đến năm 519, và có cảng
Óc Eo rất nhộn nhịp - mạnh dần và thôn tính Kauthara (Khánh hòa) và Panduranga
(Bình và Ninh thuận). Còn Vijaya (Bình định) thì thuộc về Lâm Ấp. Vùng Aryaru
(Phú yên) trở thành vùng trái độn.
Suốt thời Tam quốc sang đến nhà Tấn
người Lâm ấp vẫn thường sang quấy nhiễu quận Nhật nam, có khi tiến đánh đến
quận Cửu chân nữa. Năm 353 đời vua Mục đế nhà Đông Tấn sai quan thứ sử Giao
châu là Nguyễn Phu đánh bại vua Lâm Ấp là Phạm Phật (Bhadravarman) phá hủy hơn
50 đồn lũy. Năm 399 vua Lâm Ấp là Phạm Hồ Đạt lại đánh phá đến tận Giao chỉ bị
quan thái thú Đỗ Viện đánh đuổi. Năm 413 lại tái diễn, nên năm 420 con của Đỗ
Viện là Đỗ tuệ Độ phải kéo quân sang tiểu trừ tận đất Lâm Ấp, từ đó ngưới Lâm
Ấp mới chịu hàng phục cống tiến Trung hoa hàng năm.
Sang đến thời loạn lạc Nam Bắc triều
ở Tàu (420-588) thì nhà Nam Tống cai trị đất Giao châu. Năm 433 vua Lâm Ấp Phạm
Dương Mại cho sứ sang Tàu xin làm chủ đất Giao châu, vua Tống không thuận, nên
quân Lâm Ấp luôn sang quấy phá Nhật nam và Cửu chân. Vua Tống sai quan thứ sử
Đàn hòa Chí đem quân sang đánh Lâm Ấp, tàn phá kinh đô Trà Kiệu (Đồng dương,
Quảng nam bây giờ) và lấy được vô số vàng bạc châu báu. Sử chép Đàn Hòa Chí thu
được một tượng bằng vàng nặng đến nổi mấy người khuân không xuể.
Cuối thế kỷ thứ 5 ảnh hưởng của Lâm
Ấp mở rộng về phía tây đến Nam Lào (Champassak), nhưng đầu thế kỷ thứ 6 thì
vùng này lọt vào tay người Khmer (Chân lạp), lãnh thổ Lâm Ấp bành trướng đến
đèo Cù mông (Phú yên). Người ta đã tìm thấy tấm bia Vat Luang Kau gần chùa Vat
Phou (Champassak, nam Lào), cho biết là vào thế kỷ thứ 5, biên giới Champa mở
rộng đến bờ sông Mekong.
Vào giửa thế kỷ thứ 6, nước Phù nam
lại bị người Khmer thôn tính, trở thành Thủy Chân lạp. Vị vua cuối của Phù Nam
được sử Tàu nhắc đến là khoảng năm 550. Nước Chân lạp (Chen-la hay Zhenla) được
hình thành vào khoảng thế kỷ thứ 5, mà truyền thuyết thần thoại theo văn minh
Ấn kể rằng thần Shiva kết hợp đạo sĩ Kambu Svayambhuva ở xứ Kambujadesha (nên
mới có chữ Kampuchea hay Cambodia bây giờ) với tiên nữ của Đại hồ tên là Mera,
từ đó có giống Khmer (do hai chữ Kambu và Mera ghép lại).
Năm 539- 577, dưới triều vua Rudra varman
khu Mỹ sơn lại bị đốt phá, và đã được vua Sambhu varman (mất năm 629) trùng tu
lại. Đến đời nhà Tùy, năm 602 vua sai tướng Lưu Phương kéo quân sang Giao Châu
dẹp cuộc nổi dậy của Lý Phật Tử, sau khi bình định xong Lưu Phương tiến xuống
đánh Lâm Ấp để cướp của, vua Lâm Ấp là Phạm-Chí (Cambhu varman) thất trận chạy
thoát. Sau khi Lưu Phương vào kinh đô Trà Kiệu gom góp được vô số của cải, đã
lấy đi 18 tấm miếu chủ đúc bằng vàng. Lâm Ấp từ đấy lại xin triều cống như cũ.
Đến đời nhà Đường có ba sự kiện đáng
ghi nhớ
1) Vào đời Thái tông, nước Lâm Ấp
đổi quốc hiệu là Hoàn Vương (?). Cụ Trần trọng Kim chép trong Việt nam sử lược
trang 60: "Đến quãng năm Trinh-quan đời vua Thái tông nhà Đường, (tức
khoảng từ năm 627 đến 630) vua Lâm Ấp là Phạm Đầu Lê mất, con Phạm Trấn Long
cũng bị người giết, người trong nước lập một người con bà cô Phạm Đầu Lê, tên
Chư Cát Địa ( Vikranta varman I) lên làm vua. Chư cát Địa đổi quốc hiệu là Hoàn
Vương quốc. Họ Chư lại kéo quân sang đánh Giao châu và chiếm giữ châu Hoan và
châu Ái.
Nhưng có tác giả lại viết là từ năm
758, sử Trung Hoa không còn gọi nước nầy là Lâm Ấp mà đổi tên gọi là nước Hoàn
Vương (Huan Wang). Dựa vào các bia đá ở Mỹ Sơn thì năm 758 là triều vua
Vikrânta varman II kế vị. Vikrânta varman II là thái tử Prakasa dharma, con của
một hoàng thân Chàm tên là Jaga dharma đã sang Chân Lạp cưới công chúa Carvâni (con
của vua Icanavarman). Về sau chính vua Chàm ở phía bắc Vikranta varman II này (của
bộ tộc Dừa- Narikela vamsa) đã thôn tính vùng Kauthara (Khánh hòa) của các tiểu
vương Chàm ở phía nam (bộ tộc Cau – Kramuka vamsa) . Như thế thì chưa rõ thuyết
nào đúng về niên đại của sự đổi tên Hoàn Vương Quốc.
2) Năm 679 vua Đường Cao tông (Phụ
chú: là ông vua yếu đuối đa tình đã tằng tịu với Võ Tắc Thiên, cung tần của vua
cha và đã đưa bà lên ngôi Hoàng hậu. Vào năm này Cao tông đã ngã bệnh liệt
giường, có lẽ bởi tai biến mạch máu não do chấn động sau cái chết đột ngột của
Thái tử Lý Hoằng. Mọi việc triều chính đều do Võ hậu quyết định cả, người ta
nghi chính Võ hậu đã đầu độc con trai trưởng của mình bởi vì sợ vai trò của bà
bị đe dọa), ra lệnh chia đất Giao chỉ bộ ra làm 12 châu và đặt chức An nam đô
hộ phủ, từ đó có tên An nam.
3) Nạn giặc biển từ Java và Sumatra
mà Sử chép là "Năm 767 có quân Côn lôn và quân Đồ bà từ hải đảo kéo vào
cướp phá đất Giao châu. Quan kinh lược sứ Trương Bá Nghi (Tchang-po Yi) cho đắp
La-thành để chống giữ." Thành Đại la về sau trở nên thành Thăng Long. Thực
ra quân hải đảo là lực lượng hải thuyền của một vương quốc hùng mạnh Sri-Vijaya
ở Sumatra lúc bấy giờ (đã từng khống chế đường hàng hải huyết mạch ở vùng Đông
Nam Á trong suốt 700 năm (từ thế kỷ thứ 7 đến 13). Quân này không những đánh
phá riêng Giao châu mà liên tục tàn hại dân Chàm ở ven biển như Eatran (Nha trang
ngày nay) năm 774 và Panra (Phan Rang ngày nay), vào năm 787. Một bia ký ở tháp
Bà còn ghi lại nổi kinh hoàng này của năm 774. Nếu giả thử quân của đế quốc
Sri-Vijaya chiếm đóng thành công vùng duyên hải Đông dương thì lịch sử khu vực
này đã chắc không như bây giờ.
Vào đầu thế kỷ thứ 9, năm 802 vua
Hoàn Vương là Hari varman I lại đem thủy quân lên đánh phá một số tỉnh Trung
Hoa, và liên tiếp các năm 803 và 806, còn kéo quân xâm lấn Giao Châu. Để trừng
phạt, năm 808 quan đô hộ Giao Châu là Trương Chu đem binh thuyền vào tàn sát
dân quân Champa làm cho vua Hoàn Vương phải dới kinh đô xuống vùng Bằng An ngày
nay, còn gọi là Vệ thành (thuộc xã Thăng Bình, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam,
mà vết tích thành cũ nay không còn nữa - theo Sách Đại Nam Nhất Thống Chí). Để
tránh áp lực từ phương bắc, các vua Chàm Sakti varman và Bhadra varman II bành
trướng lãnh thổ dần về phía nam và phía tây, thâu gồm Panduranga (Ninh và Bình
thuận) và vùng tây nguyên thành một vương quốc mới được gọi là Champa
(Champapura - Champa: hoa sứ; pura: thành, hay quốc gia).
Trong thời kỳ này việc bang giao
giữa Hoàn Vương và Chân Lạp trở nên căng thẳng và đưa đến cuộc tương tranh tàn
phá lẫn nhau trong khoảng hai thế kỷ. Khởi đầu vào năm 810, không rõ vì lý do
gì tướng Champa Senapati Par đem quân tấn công Chân Lạp, mà bia ký ở tháp Bà Po
Nagar còn ghi chiến tích.
Năm 877 dưới đời vua Indravarman II
Champa lại xin triều cống Trung quốc như xưa. Những bia đá ở đền Kok Klor trong
thung lũng Bla trên miền cao nguyên gần Kontum đề năm 914 ghi việc một tộc
trưởng là Mahindravarman xây dựng tháp thờ Bồ tát Mahindra- Lokesvara. Thời kỳ
này sự giao hảo giữa Champa và đế quốc Sri-Vijaya rất là mật thiết. Một bia đá
ở Nhan Biểu (thuộc tỉnh Quảng trị) ghi chuyện một vị hoàng thân tên là
Rajadvara đã dựng hai ngôi tháp vào các năm 908 và 911, và đã hai lần đi hành
hương thánh tích Phật ở Yavadvirapura (tức Java ngày nay).
Năm 950, Chân Lạp dưới quyền vua
Rajendra varman sang đánh phá vùng Kauthara (Khánh hòa) của Champa vào thời vua
Indravarman III, và đã cướp đi tượng Bà bằng vàng do nhà vua dựng lên ở Po
Nagar vào năm 918. Nhưng bia ký của Chân Lạp tại Pre Rup lại ghi rõ hơn là
thành Kauthara bị phá hủy san bằng, vua Champa bị bắt và sau khi bị hành hạ đã
bị tế sống cho thần Harisvayambhu trên bờ sông Visnupadi.
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng
đế đổi tên nước ta là Đại Cồ Việt, sau khi An nam dành dược độc lập với Ngô
Quyền xưng vương tại Giao Châu năm 939. Năm 979, Lê Hoàn kế vị xưng là Đại Hành
Hoàng Đế, sai Từ Mục và Ngô Tử Canh đi sứ sang Champa giao hảo. Vua Champa là
Paramesvara varman I, vốn liên kết với một trong 12 sứ quân thời hậu Ngô Quyền
nhưng bất thành, đang đóng đô tại Indrapura (Đồng Dương, Quảng Nam) gần thánh địa
Mỹ Sơn, bắt giam sứ giả. Năm 982 sau khi đuổi quân Tống, Lê Đại Hành bèn thân
chinh đem quân đánh trừng phạt Champa, vua Champa bị giết ngay trong trận, vua
Lê tiến vào kinh đô, đốt phá đền đài và lấy được rất nhiều của cải rồi rút về.
Từ năm 983 kẻ kế vị ngôi vua Champa là Lưu Kỳ Tông xin triều cống vua Lê và
chịu làm chư hầu.
Để tránh áp lực ngày càng lớn của
nước Đại Cồ Việt mới tự cường, nên năm 1000 vua Champa Srihari vamadeva một năm
sau khi lên ngôi đã dời đô từ Indrapura (Đồng Dương, Quảng Nam) xuống Vijaya (có
nghĩa là chiến thắng, mà ta âm là Đồ Bàn hay Chà Bàn) ở vùng Bình Định ngày
nay. Từ đó các bia ký ở Mỹ sơn gọi các vua mới là vua của Vijaya (hay Vijaya
Sri), vua Srihari vamadeva sau khi qua đời đã được thần hóa là Yang Pu Ku.
Năm 1068, vua Champa là Rudra varman
III (Chế Củ), kế vị vua Hari varman II, đem quân xâm lấn đất Việt ở phía bắc.
Bấy giờ vua Lý Thánh Tông, người đã dời đô về thành Đại la, cải danh là Thăng
Long thành và đổi quốc hiệu ra Đại Việt khi mới lên ngôi, đã quyết định thân
chinh xuống đánh Đồ Bàn năm 1069, bắt và giải Chế Củ về Thăng Long. Để đổi lấy
tự do, Chế Củ xin dâng đất ba châu phía bắc Champa là Bố Chánh (Hà Tĩnh và bắc
Quảng Bình), Địa Lý (trung và nam Quảng Bình), và Ma Linh (bắc Quảng Trị).
Đến năm 1074, hoàng thân Than lên
ngôi xưng là Hari varman IV (1074- 1080), nước Champa hưng thịnh trở lại và vua
Hari varman IV cho trùng tu khu thánh địa Mỹ sơn. Sau khi hòa hoãn với Đại
Việt, vua Harivarman IV xua quân đánh Lục Chân Lạp, chiếm Sambor (bắc Phnom
Penh và đông hồ Tonle Sap), giết vua Harshavarman III, tàn phá kinh thành
Somesvara (Angkor), bắt nhiều người Chân Lạp làm tù binh. Năm 1145, vua
Suryavarman II của Chân Lạp phục thù, đánh Champa chiếm Đồ Bàn, tàn phá khu
thánh địa Mỹ sơn. Mãi đến năm 1149 vua Champa mới đuổi được quân xâm lược. Khi
tu bổ Mỹ sơn vua Harivarman IV cho dựng bia đá ghi lại cuộc tàn phá thánh địa
này.
Năm 1166, vua Indra varman IV, một
vị vua Champa rất anh dũng lại xua đại quân xâm lăng Chân Lạp cướp được nhiều
của cải. Sử Miên còn ghi "Jaya (vua) Indra varman IV, vua Chàm, có tính tự
phụ như Râvana, đã vận chuyển quân trên những chiến xa, tiến đánh xứ 'Kam
Bu". Mười năm sau, năm 1177, Indra varman IV lại gởi thuỷ quân xuống phía
nam, vào cửa sông Cửu Long, tiến ngược dòng lên đánh thành Angkor, tàn phá kinh
đô, giết vua Tribhuvanaditya varman và chiếm đóng Chân Lạp. Sau trận này vua
Champa cũng thu đoạt được vô số châu báu, vi thế vua Indra varman IV đã dâng
cúng nhiều vàng bạc cho các ngôi tháp ở Mỹ sơn. Mãi đến năm 1181, Hoàng tử Chân
Lạp mới đẩy lui được quân Champa, lên ngôi vua là Jaya varman VII nuôi chí phục
thù.
Năm 1190 vua Chân Lạp Jayavarman VII
sai các tướng đem một hoàng thân Champa lưu vong tên là Vidyanandana về đánh
Champa, chiếm đóng Đồ Bàn và cướp hết các linh tượng, bắt và giải vua Indra varman
về Chân Lạp, chia nước Champa làm hai chư hầu: tiểu quốc Vijaya (Đồ Bàn) do
người em vợ của vua Chân Lạp cai trị với vương hiệu là Suryavarmadeva, và tiểu
quốc Pandaranga (Phan Rang), do một hoàng thân Champa Vidyanandana cai trị,
nhưng tùy thuộc vào Chân Lạp. Không lâu sau, một hoàng thân Chiêm tên là
Rasupati nổi lên đánh đuổi quân Chân Lạp, lên ngôi là Indra varmadeva ở Vijaya
nhưng lại không tồn tại lâu, và bị quân Chân Lạp quay lại bắt giết vào năm
1192. Vua Surya varmadeva được tái lập nhưng lại quay ra không phục tùng Chân
Lạp, mà bang giao với Đại Việt và Trung quốc. Vua Chân Lạp Jaya varman VII liền
tấn công Champa trong các năm 1192 và 1193 nhưng đều thất bại. Mãi đến năm
1203, vua Chân Lạp mới chiếm được Vijaya, và biến Champa thành một lãnh địa của
Chân Lạp. Nhưng sau khi Jaya varman VII chết quân Chân Lạp phải rút quân, và
Champa mới giành lại được độc lập năm 1220 dưới thời vua Paramesvaravarman II,
khi Chân Lạp bận rộn đối phó với những cuộc xâm lăng của Xiêm La. Từ đó chấm
dứt cuộc tương tranh giữa Champa và Chân Lạp đã kéo dài 32 năm.
Vì cứ can qua chiến tranh liên tục
nên Champa trở nên suy yếu. Khi vua nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt (Qubilai) sai
tướng Toa Đô (Sogatu) cầm thủy quân xuống đánh Champa năm 1282, quân Champa
chống cự không nỗi nên quân Nguyên vào Thị Nại, tàn phá kinh đô Đồ Bàn và chiếm
đóng nước Champa trong vòng 5 năm, Vua champa Indra varman V, cùng thái tử Bổ
Đích (Harijit) thoát lên vùng cao nguyên và cầu cứu Đại Việt. Vua Trần Nhân
Tông gởi hai vạn quân và 500 chiến thuyền sang giúp. Đến khi quân Việt đánh bại
được quân Mông năm 1287, cũng giải phóng luôn nước Champa, nên năm 1307 tân
vương Simhavarman III (Chế Mân) tặng vua Trần anh Tôn 2 châu Ô và Lý để làm
sính lễ cưới công chúa Huyền Trân. Vua Chế Mân cũng xây dựng thêm nhiều ngôi
tháp thờ phượng thần linh ở vùng Mỹ Sơn. Ba năm sau khi Chế Mân mất, vua Chế
bồng Nga (Pô Bin Swơr) từng nuôi chí phục thù nên năm 1370 đã kéo quân thủy bộ
đánh phá vào tận kinh đô Thăng Long, nhưng đến năm 1382 lại bị tử trận. Tuy vậy
các vua Champa kế tiếp vẫn luôn gây chiến với nước Việt.
Huyền Trân Công Chúa
Vào thời kỳ này, lãnh thổ Champa khá
rộng. Lãnh thổ Champa trải dài từ các bình nguyên duyên hải nhỏ hẹp cho đến
vùng rừng núi Trường Sơn cũng như các cao nguyên nam Trung phần ngày nay. Người
Champa không chỉ là người Chàm ở duyên hải là đa số mà còn gồm những nhóm dân
thiểu số khác như giống Jarai, Rhade, Churu, Raglai, Stieng hiện vẫn còn sinh
sống ở vùng Tây nguyên mà những câu tục ngữ vẫn còn lưu truyền như "Chăm
anh, Raglai em" (Cam saai, Raglai adei), hoặc "Chăm với Raglai như
hai anh em ruột" (Cam saung Raglai yơu adei ai sa tiam). Ngoài ra lịch sử
Chàm còn cho thấy đầu thế kỷ 14, quốc vương Jaya Simha varman III (Chế Mân) xây
đền Yang Prong ở lưu vực sông Se San. Đền Yang Mun (gần Cheo Reo) ở lưu vực
sông Ba và đền Phú Thọ gần Pleiku được xây dựng vào cuối thế kỷ 14, đầu thế kỷ
15. Vua Po Romê (mà bia ở tháp thờ tại Ninh thuận ghi là Pa Rrame) là người sắc
tộc Churu, trị vì Champa từ 1627 đến 1651, mở đầu một triều đại gồm 14 quốc
vương kéo dài cho đến 1786.
Năm 1402, Hồ Quý Ly xâm lăng Champa
ép vua Champa dhiraya (Ba Đích Lại) nhường đất Indrapura - Chiêm động hay Đồng
dương (Phủ Thăng binh, Quảng Nam) và đất Amaravati-Cổ lụy (Quảng Nghĩa), rồi
cải thành bốn châu là Thăng, Hoa, Tư và Nghĩa, đặt quan An phủ sứ cai trị và di
dân vào khai khẩn. Khi quân Minh xâm lăng nước ta năm 1407, vua champa liền
đánh chiếm lại vùng đất đã nhường năm năm trước.
Đến thời Hậu Lê: Dưới đời Nhân Tông
vua Champa là Ma Ha Bí Cái (Maha Vijaya) gây hấn đánh Hóa châu năm 1444, nên
hai năm sau các tướng Lê Thụ và Lê Khả cầm quân đánh phá Đồ Bàn, bắt Bí Cái,
đưa người khác lên thay, rồi rút quân về. Đến đời Thánh tông, vua mới của
Champa là Trà Toàn lại xua quân hai lần xâm lấn Hóa châu vào những năm 1468 và
1469, vua Thánh tông phải thân chinh kéo quân đánh dẹp và chiếm Đồ Bàn năm 1471
bắt giết Trà Toàn đem đầu về ở Thăng Long. Vua Lê lấy vùng Amaravâti (Quảng
Nam, Quảng Ngãi) và Vijaya (Bình Định) đặt thành "Quảng Nam thừa tuyên
đạo" lấy đèo Cù Mông làm ranh giới, và chia phần đất Champa còn lại làm ba
nước nhỏ là Hóa Anh (Phú Yên, Khánh Hòa), Champa, chỉ còn lại từ Phú yên đến
mũi Kê gà (Phan Rang- Bình thuận), và Nam Phan(Gia Lai, Kontum, Darlac). Theo
những tài liệu Mã Lai, khi Champa bị Lê Thánh Tông tấn công năm 1471, một số
quan chức triều đinh Champa bị bắt, một số bỏ trốn qua Chân Lạp, Mã Lai tỵ nạn.
Vào thế kỷ thứ 16, người Champa
thường buôn bán với người Bồ Đào Nha ở Macao (Trung Hoa). Người Bồ Đào Nha hay
ghé đến vùng Panduranga (Cam Ranh và Phan Rang ngày nay) và tài liệu của người
Bồ Đào Nha đã ghi nhận sự hiện diện của thương thuyền Champa ở cửa khẩu sông
Maenam (Menam), là cửa khẩu chính của nền ngoại thương Xiêm La.
Qua thế tk 17, thời chúa Nguyễn: Năm
1611, nhân các bộ tộc người Champa liên kết lại cùng đánh phá vùng biên giới
phía nam, Nguyễn Hoàng sai chủ sự Văn Phong đem quân vượt đèo Cù Mông tiến
chiếm vùng Phú Yên ngày nay, giữa Vijaya và Kauthara, đổi thành hai huyện Đồng
xuân, Tuyên hóa. Sau đó không lâu vì thấy thuyền bè các nước Tây phương như Bồ
Đào Nha và Hòa Lan đang lân la đến các hải cảng của Champa. Sãi Vương Nguyễn
Phúc Chu rất lo ngại, nên năm 1631 đã gả người con gái thứ ba là Nguyễn Phúc
Ngọc Khoa cho vua Champa là Pô-Rômê để tạo sự hòa hiếu với Champa. Sau năm 1639
thì cuộc giao thương giữa Champa và người Bồ Đào Nha hầu như chấm dứt và người
Chàm quay sang buôn bán với người Hòa Lan sau khi người Hòa Lan làm chủ Malacca
vào năm 1641 và làm chủ con đường buôn bán hồ tiêu qua eo biển Malacca. Năm 1653,
vua Chiêm là Bà Thấm, vốn là hậu duệ của hoàng gia Chân lạp, đem quân đánh phá
Phú Yên nên chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần bèn sai cai cơ Hùng Lộc vượt đèo Cả sang
trừng trị. Bà Thấm thất trận dâng thư xin hàng. Chúa Hiền lấy hẳn vùng
Kauthara, lập thành phủ Thái Ninh, sau đổi thành phủ Diên Khánh, trong đó có
thánh tích Champa là Po Nagar (Tháp Bà, Nha Trang ngày nay). Champa chỉ còn lại
vùng Panduranga, phía nam sông Phan Rang. Khi rút về vùng Panduranga, người
Champa tiếp tục lập thờ Thánh Mẫu Po Nagar ở một ngôi đền nhỏ ở làng Hữu Đức, huyện
Ninh Phước, tỉnh Ninh thuận ngày nay.
Khoảng thời gian từ 1675 đến 1685, theo
sử liệu của Thái lan đã cho biết một người anh em của quốc vương Champa đến
viếng triều đình Xiêm La, có lẽ để cầu viện; năm 1680 vua Champa còn gởi hai
phái bộ đến Batavia (tức Jakarta, Indonesia ngày nay) để liên lạc ngoại giao.
Năm 1692, vua mới là Bà Tranh tự bỏ
lệ triều cống. Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Cảnh (hay Kính) kéo
quân xuống hỏi tội và đánh bắt được Bà Tranh và giải về Phú Xuân. Chúa Nguyễn
lấy đất Champa còn lại đặt ra Thuận phủ, năm sau lại đổi ra Thuận thành trấn.
Đến năm 1697 chúa Nguyễn đặt ra Phủ Bình Thuận, lấy đất Phan lang, Phan lý làm
huyện Yên phúc và huyện Hòa đa. Từ đó nước Champa mất hẳn, tuy vậy chúa Nguyễn
vẫn cho người Champa còn lại được tự trị một vùng đất ở Bình Thuận cho mãi đến
năm 1832, khi vua Minh Mạng ra lệnh bãi bỏ vùng tự trị. Người Chàm nổi dậy
chống đối nhưng hai cuộc khởi nghĩa do Katip Sumat lãnh đạo từ 1833 đến 1834 và
Ja Thak Va cầm đầu từ 1834 đến 1835 đều bị quan quân dẹp yên nhanh chóng. Trước
kia những người Chàm theo Hồi giáo di tản sang định cư ở Ayudhya (bắc Bangkok,
Xiêm La) đã tham gia vào một âm mưu lật đổ quốc vương Xiêm La và thay thế bằng
người em của ông ta, vì thế triều đình Xiêm La cho phép những người Chàm tị nạn
về sau, đến định cư ở vùng Bangkok. Con cháu những người nầy hiện vẫn sống tại
đó
Tuy nước Champa đã bị xóa nhưng cuộc
nam tiến của dân Việt vẫn tiếp tục cho mãi đến năm 1714 sau khi thôn tính luôn
vùng Thủy Chân lạp.
3-Lịch sử nền văn minh
Champa theo khoa khảo cổ học:
Nhà nghiên cứu khoa học người Pháp Etienne
Aymorier vào năm 1885 đã khai quật dưới lòng đất tại làng Võ cạnh Nha Trang
khám phá ra một văn bia (khắc chữ trên phiến đá Granit) bằng Phạm ngữ (Snskrit)
có niên đại vào cuối thế kỷ thứ II sau công nguyên. Trên văn bia ấy có ghi rõ
công trạng của một vị vua Sri-Mara, người đã khai sáng ra một triều đại Vương
Quốc Champa đầu tiên. Ðối chiếu với sách Thủy Kinh chú Trung Hoa đã nói ở đoạn
trên, ta thấy sử liệu của Trung Hoa và bia ký đã khai quật được hoàn toàn giống
nhau về không gian và thời gian lập quốc. Nhân vật Sri-Mara chính là Khu Liên.
Trên văn bia Phạm ngữ của
SambhuVarman (Phạm Phàn Chí) vào thế kỷ thứ XI có khắc tên một quốc gia cổ mà
trong sách Tân đường Thư có đề cập đến Âu Dương Tu, Tổng kỳ đã phiên âm ra Hán
ngữ là Chiêm Bà tức Champa ngày xưa. Người champa xuất thân từ người tiền thân
nam đảo cổ Malayo Polynésien , tiền thân của tộc người nam đảo ngày nay, sống
trên dãi bờ biển trải dài bắc: từ đảo hải nam trung quốc, nam: bà rịa-vũng tàu
ngày nay. Đông giáp biển champa ( biển đông), tây giáp tây lào. Người champa
định cư trên dãi đất này từ đầu những năm 2000 trước công nguyên. Tài liệu
chính xác nhất là những gì còn lại của nền văn hóa sa huỳnh. Từ thông tin đầu
tiên trong Niên giám 1909 của tập san Trường Viễn Đông bác cổ về việc phát hiện
“một kho chum khoảng 200 chiếc nằm cách mặt đất không sâu, trong một cồn cát
ven vùng biển Sa Huỳnh” (huyện Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi), đến nay hàng trăm di
tích của nền văn hóa này đã được tìm thấy khắp các tỉnh ven biển miền Trung từ
Thừa Thiên Huế đến Bình Thuận. Diện mạo của văn hóa Sa Huỳnh, từ nguồn gốc đến
các giai đoạn phát triển, từ. loại hình di tích di vật đến đặc trưng văn hóa… ngày
càng rõ nét Suốt 100 năm qua là một cuộc tìm kiếm không mệt mỏi của các nhà
khảo cổ, các nhà nghiên cứu về một nền văn minh cách chúng ta hàng nghìn năm.
M.Vinet - một nhà khảo cổ người Pháp - phát hiện những mộ chum đầu tiên vào năm
1909 và cũng là nơi xuất hiện những hiện vật có niên đại sớm nhất của văn hóa
Sa Huỳnh.
Thật ra thuật ngữ “văn hóa Sa Huỳnh”
không phải có ngay sau khi ông M. Vinet phát hiện khu mộ chum này mà phải đợi
một thời gian dài sau đó, khi bà La Barre - vợ một viên thuế quan Pháp ở Sa
Huỳnh - vốn ham thích trang sức đá quý và thủy tinh trong chum nên đã huy động
dân đào khu mộ chum ở Phú Khương và Thạnh Đức, mỗi nơi thu được 120 chiếc. Đến
năm 1934, một nhà khảo cổ học khác tên M.Colani tiếp tục mở rộng không gian ra
các vùng lân cận như Phú Lu, Đồng Phú (Quảng Ngãi), Tăng Long, Phú Nhuận (Bình
Định). Hàng trăm mộ chum tương tự cũng được phát hiện qua đợt khai quật này.
Năm 1935, bà M.Colani đã công bố những phát hiện của mình cùng các đồng nghiệp
trước đó tại một cuộc hội nghị tiền sử Viễn Đông ở Manila (Philippines).
Báo cáo của M.Colani lập tức thu hút
sự chú ý của các nhà khảo cổ. Cái tên Sa Huỳnh cùng thuật ngữ “văn hóa Sa
Huỳnh” bắt đầu hình thành và liên tục mời gọi tất cả giới khảo cổ. Tuy nhiên,
hai cuộc chiến tranh suốt 30 năm sau đó đã không cho phép họ thực hiện ý định
của mình mà phải đợi đến sau ngày giải phóng miền Nam, các nhà khảo cổ VN mới
làm tiếp những dang dở trước đó . Nền văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung được giới
khảo cổ phát hiện từ hơn nhiều năm trước.10 nhà khoa học Đức - Việt tiến hành
khai quật di chỉ Lai Nghi ở Điện Bàn, Quảng Nam. Kết quả lần này cùng với hai
đợt tiến hành năm trước đã cho ra bức tranh văn hóa Sa Huỳnh chi tiết hơn. Từ
trước năm 1975, các nhà khoa học đã phát hiện ở vùng Sa Huỳnh (Quảng Ngãi) một
di chỉ chứng minh tại đây đã từng tồn tại một nền văn hóa phát triển đồng thời
với văn hóa Đông Sơn ở phía Bắc và văn hóa Óc Eo ở miền Nam, có niên đại cách
đây ít nhất 2.400-3.000 năm. Di vật tìm thấy là đồ tùy táng chôn theo người
chết được hỏa táng, đặt trong các mộ chum bằng đất nung và chưa xác định được
chủ nhân, vì vậy giới khảo cổ tạm gọi đó là nền văn hóa Sa Huỳnh. Do hầu hết
các di chỉ đều là mộ táng, lại tập trung ở vùng duyên hải nên giới nghiên cứu
đoán định rằng chủ nhân của chúng cư trú tại các hòn đảo trên Thái Bình Dương,
có tục hỏa táng và chôn ở đất liền.
Do hoàn cảnh chiến tranh, những phát
hiện về văn hóa Sa Huỳnh cũng chỉ dừng lại đó. Riêng tại Quảng Nam, từ những
năm sau 1985, Viện Khảo cổ học Việt Nam kết hợp với bảo tàng tỉnh đã đưa lên từ
trong lòng đất những kho tàng khảo cổ có liên quan đến nền văn hóa này. Các di
vật xuất hiện ở nhiều nơi, đặc biệt dày đặc ở Hội An, Điện Bàn. Năm 1993-1995
với sự tài trợ của Tổ chức Toyota Foundation (Nhật Bản), Đại học Tổng hợp Hà
Nội đã thực hiện một cuộc khai quật khảo cổ lớn tại Hội An. Phạm vi khảo cổ
trên bình diện 70 km2, kéo dài dọc theo sông Thu Bồn. Kết quả có ý nghĩa từ
cuộc khai quật này là ở đâu có dấu vết văn hóa Sa Huỳnh thì nơi đó có vết tích
của văn hóa Champa. Có thể nhận định đã có sự kế thừa nào đó về mặt địa lý giữa
cư dân hai nền văn hóa... Ngoài ra, sự kiện tìm thấy 2 đồng tiền Ngũ Thù, Vương
Mãng niên đại thế kỷ 1, 2 trước công nguyên, cùng các loại gốm văn in hình học
kiểu Hán Hoa Nam tại Hậu Xá, đã xác định một quan hệ giao lưu giữa chủ nhân văn
hóa Sa Huỳnh với bên ngoài. Đồng thời, nhiều hiện vật cũng cho thấy thấp thoáng
những di chỉ cư trú nằm cùng tầng văn hóa với văn hóa Sa Huỳnh... Tuy vậy với
chừng đó chưa thể xác nhận được chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh từ đâu đến; có quan hệ
kế thừa với vương quốc Champa cổ đại sau này hay không? Đợt khảo sát lần này
của Viện Khảo cổ học Quốc gia Đức cùng Đại học Quốc gia Hà Nội tại di chỉ Lai
Nghi (giáp ranh với Hội An) là để làm sáng tỏ những nghi vấn đó. Có một
"trung tâm thương mại" Hội An cổ đại. Tiến sĩ Andreas Reinecke,
Trưởng đoàn khai quật Viện Khảo cổ chung và so sánh thuộc Viện Khảo cổ học quốc
gia Đức, cho biết, kết quả thu được từ khai quật tại Lai Nghi rất lớn và có ý
nghĩa rất quan trọng. Trong ba đợt đào, nhóm đã phát hiện khoảng 40 địa điểm có
văn hóa Sa Huỳnh, với 62 mẫu mộ chum và mộ đất cùng hơn 10.000 di vật có giá
trị. Trong đó số hạt cườm trang sức nhiều chưa từng có từ trước đến nay với 200
loại hạt chuỗi, chế tác bằng 5 loại đá khác nhau, giá trị là hai mề đay (medal)
bằng đá đỏ hình chim nước và hổ chế tác rất tinh xảo, lần đầu tiên được tìm
thấy tại các di chỉ ở Đông Nam Á. Giá trị nữa là 5 bộ đồ đồng (2 gương soi thời
Hán), khuyên tai vàng chưa bao giờ tìm được ở Việt Nam (di chỉ giồng Cá Vồ có,
nhưng loại nhỏ, có hình dáng khác) Nhiều loại trong đó chứng tỏ rằng nghề tiểu
thủ công của cư dân vùng này rất phát triển. Ví dụ hai chiếc lọ gốm gần như
nguyên vẹn được trang trí hoa văn tia mặt trời (thường thấy trên mặt trống đồng
Đông Sơn) lạ mắt, rất đẹp bằng ba màu đỏ đen và trắng, gần như chưa từng phát
hiện từ trước đến nay tại các hố khai quật văn hóa Sa Huỳnh... Những gì tìm
được tại đây, có thể khẳng định rằng Lai Nghi sẽ là một trung tâm khảo cổ lớn
nhất về văn hóa Sa Huỳnh của Việt Nam.
A. Reinecke nhận định "chưa có
gì xác nhận có một mối liên hệ giữa văn hóa Sa Huỳnh muộn với văn hóa Champa
sớm, nhưng khả năng đã có một bộ phận cư dân văn hóa Sa Huỳnh tiếp tục sống và
phát triển trong văn hóa Champa. Bây giờ chúng tôi chưa có điều kiện so sánh
giữa hai nền văn hóa này. Song có một điều chắn chắn là, qua sự tương đồng của
một số hiện vật tìm thấy tại đây với di chỉ tại một số hòn đảo trên vùng biển
Đông Nam Á (ví dụ khuyên tai ba mấu và hai đầu thú). 2.500 năm trước đã có cư
dân từ đó đến miền Trung Việt Nam.
Tuy vậy phát hiện trong đợt khai
quật khảo cổ này hầu hết là di chỉ mộ táng có niên đại từ thế kỷ 2 trước Công
nguyên đến 300 năm sau Công nguyên. Có 3 di chỉ cư trú, nhưng chưa có niên đại
chắc chắn, do vậy chưa thể coi đó là của văn hóa Sa Huỳnh. Có thể thời kỳ này
người ta làm nhà bằng tranh tre, gỗ nên không để lại vết tích. Quan trọng hơn
cả là qua những hiện vật tìm được có thể nói rằng trong thời kỳ này, Hội An đã
là một trung tâm kinh tế lớn thu hút từ vùng núi dọc sông Thu Bồn, xuống duyên
hải, từ văn hóa Đông Sơn và từ Trung Hoa đến Ấn Độ".Văn hóa Sa Huỳnh phát
triển từ sơ kỳ đồng thau đến sơ kỳ đồ sắt, từ khoảng 2000 năm đến những thế kỷ
trước Công nguyên. Quá trình hội tụ những nguồn gốc khác nhau đã tiến tới giai
đoạn phát triển cực thịnh của văn hóa này vào khoảng 2.500 – 2.000 năm cách
ngày nay. Chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh có quan hệ cội nguồn với các văn hóa
hậu kỳ đá mới – sơ kỳ đồng thau ven biển, được coi là những người Tiền Mã Lai -
Đa đảo (Proto Malayo Polynesien). Trong quá trình hình thành văn hóa Sa Huỳnh
có những liên hệ với những nhóm cư dân cùng thời là những người “Tiền Môn –
Khmer” hay Tiền Nam Á. Ngoài ra suốt quá trình phát triển văn hóa này còn có
nhiều mối quan hệ giao lưu rộng rãi với những văn hóa thời kim khí ở Đông Nam
Á. Qua đó có thể thấy chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh nói tiếng Nam Đảo hay Malayo
Polynesien nhiều hơn yếu tố Nam Á. Đặc trưng cơ bản của văn hóa Sa Huỳnh là
táng thức mộ chum, vò suốt từ giai đoạn sớm đến muộn, tuy ở một vài địa điểm vẫn
có sự hiện diện của mộ huyệt đất.
Các khu mộ phân
bố tập trung ở những cồn cát ven biển, lan dần ra các đảo ven bờ, ngoài ra còn
phân bố ở vùng đồng bằng và miền núi phía tây. Di tích là những khu mộ táng
rộng lớn gồm hàng chục, hàng trăm chum, vò gốm chôn đứng trong địa tầng. Loại
hình chum, vò chủ yếu hình trụ, hình trứng, hình cầu đáy bằng có nắp đậy hình
nón cụt hay hình lồng bàn. Đặc biệt trong các mộ táng chum, vò thuộc văn hóa Sa
Huỳnh ít tìm thấy di cốt hay than tro hỏa táng, vì vậy theo các nhà nghiên cứu
táng tục của cư dân Sa Huỳnh có thể là “chôn tượng trưng”.Trong chum/vò chứa
nhiều đồ tùy táng gồm các chất liệu đá, gốm, sắt, đá quý, thủy tinh rất đa dạng
về loại hình: công cụ lao động, vũ khí, đồ dùng sinh hoạt, trang sức. Đặc trưng
về di vật là sự phổ biến của công cụ lao động bằng sắt, đồ gốm tô màu trang trí
nhiều đồ án hoa văn khắc vạch, đồ trang sức bằng đá ngọc, mã não, thủy tinh
vòng, hạt chuỗi, khuyên tai ba mấu, khuyên tai hai đầu thú…
Chủ nhân văn
hóa Sa Huỳnh có nền kinh tế đa thành phần, gồm trồng trọt trên nương rẫy và
khai thác sản phẩm rừng núi, trồng lúa ở đồng bằng, phát triển các nghề thủ
công, đánh bắt cá ven biển và trao đổi buôn bán với những tộc người trong khu
vực Đông Nam Á và xa hơn, với Trung Quốc và Ấn Độ. Những di tích văn hóa Sa
Huỳnh ven biển đã có thể từng là những “tiền cảng thị” (như khu vực Hội An với
di tích Hậu Xá chẳng hạn). Dù rằng việc sản xuất gốm để xuất khẩu ở Đông Nam Á
,đặc biệt là ở Đại Việt và Xiêm, phát triển khá mạnh mẽ vào thế kỷ XIV – XV, thường
là với sự khởi đầu bất ngờ của kỹ thuật Trung Quốc và kết thúc với kỹ thuật bản
địa. Tuy nhiên, lịch sử hải thương của khu vực Đông Nam Á, kết hợp với những
kết quả trong nghiên cứu khảo cổ học ở các quốc gia Đông Nam Á trong thời gian
gần đây, đã phần nào bổ sung cho chúng ta những tư liệu quan trọng về sự xuất
hiện của những sản phẩm gốm thương mại có nguồn gốc Đông Nam Á . Về đồ gốm thì
hầu như tất cả các ghi chép về Champa trong Chufanchi (1225), Dauyi Zhilue
(giữa thế kỷ XIV) và Yingua Shenglan (1416) đều chỉ nói đến việc nhập các đồ sứ
Trung Quốc. Những tài liệu trên hầu như không nhắc đến những sản phẩm gốm ở
Đông Nam Á. Lệnh cấm hoàn toàn các chuyến đi và buôn bán vải hải ngoại được ban
hành năm 1371 (năm thứ 3 niên hiệu Hồng Vũ) trong thời kỳ đầu thời nhà Minh.
Sau đó, nó lại được tái ban hành vài lần và cuối cùng bị bãi bỏ năm 1471 (năm
thứ 6 niên hiệu Long Khánh).
Nó ngăn cấm nghiêm
ngặt những chuyến đi và buôn bán hải ngoại của người Trung Quốc. Kết quả là, buôn
bán gốm từ Trung Quốc bị hạn chế lớn trong thời kỳ này. Gốm Thái Lan, Việt Nam
và Champa xuất hiện ở các vùng bờ biển xung quanh biển nam Trung Quốc như để
thay thế đồ gốm Trung Quốc. Di chỉ tiêu biểu của thời kỳ này là tàu đắm ngoài
khơi đảo Palawan, được khai quật năm 1995. Đồ gốm Champa bao gồm đĩa celadon,
bát men nâu với thân chiết yêu và các vò men nâu của lò Gò Sành.Trong những năm
gần đây, tại các lò gốm Gò Sành và một vài lò gốm khác, tất cả đều ở quanh thủ
đô Vijaya thuộc tỉnh Bình Định ngày nay, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những
đồ gốm xuất khẩu như đĩa men và bát men celadon và các hũ sành được sản xuất
trong những thế kỷ XIV-XVII mà không hề có sự phát triển trước đó của kỹ thuật
bản địa. Những mảnh vỡ của đồ gốm Gò Sành đã được khai quật thấy ở Ai Cập, đảo
Tioman ở Ma-lai-xia; Santa Ana và Calatagan ở Phi-lip-pin… và thường được tìm
thấy cùng với những đồ sứ Trung Quốc. Có tiếng vang nhất là việc tìm thấy hàng
trăm đồ gốm tráng men celadon của Gò Sành trong con tàu đắm gần hòn đảo Pandaran
ở Philippin.
Không nghi ngờ
gì nữa, những sản phẩm này bắt đầu có trước khi Đại Việt đánh chiếm Vijaya, thế
nhưng những người thợ thủ công thuộc tộc người nào thì còn chưa rõ. Chắc hẳn
Champa cũng đã bị cuốn vào trào lưu sản xuất đồ gốm thương mại chung ở Đông Nam
Á lục địa vào thời kỳ cuối Nguyên (1260-1368) và đầu Minh (1368-1644), khi mà
việc xuất khẩu đồ sứ Trung Quốc bị giảm mạnh vì khủng hoảng kinh tế và do lệnh
cấm buôn bán với nước ngoài. Với việc phân phối rộng khắp bằng đường biển qua
Ấn Độ Dương, đồ gốm Champa được khai quật từ địa điểm A1-Từ trên bán đảo Sinai
ở Hy Lạp, từ thành phố cảng thời trung cổ của Julfar trong phạm vi của Ras al
-Khaimab ở tiểu vương quốc Arập, từ di chỉ Juara trên đảo Tioman ở đảo
Ma-lai-xia và từ di chỉ mộ táng ở bán đảo Calatagan và tàu đắm ở ngoài biển
khơi của đảo Pandanan, Phi-lip-pin. Đồ gốm Champa được xuất khẩu ra nước ngoài
vào khoảng thế kỷ XV và việc sản xuất đồ gốm ở Gò Sành phát triển rất rực rỡ
vào thời gian ấy. Trong bất kỳ trường hợp nào, thì rõ ràng là kinh đô Champa đã
có một mạng lưới buôn bán vào thế kỷ XV, bao gồm cả Hy Lạp, Các Tiểu vương quốc
Arập, Ma-lai-xia, quần đảo Philippin. Thực tế này đã xác nhận sự rộng lớn của
mạng lưới buôn bán của Vương Quốc Champa trên biển. Đồ gốm không giống với vải
lụa, vẫn tồn tại trong các di chỉ mà không bị phân hủy và biến mất, thậm chí
ngay cả khi chúng bị vỡ thành từng mảnh nhỏ. Khi các khu vực (lò) và niên đại
sản xuất của một số đồ gốm khai quật đã được xác định, chúng sẽ là tư liệu quý
giá để làm rõ niên đại và đặc trưng của chính các di chỉ. Nằm ở vị trí trung độ
trên con đường giao lưu quốc tế đông-tây, Trung Quốc với Ấn Độ và xa hơn, tới
Địa Trung Hải, Đông Nam Á sớm trở thành một đầu mối mậu dịch hàng hải quốc tế.
Từ đầu công nguyên, những con thuyền của cư dân trong vùng, thuyền của người
Ấn, người Hoa cùng với nền văn hóa của họ đã thường xuyên qua lại vùng Đông Nam
Á. Trên con đường giao lưu đó, Champa chiếm lĩnh một trong những vị trí quan
trọng và thuận lợi nhất. Các cảng của Champa đóng vai trò như những cảng cuối
cùng trước khi những con thuyền vượt qua vịnh Bắc Bộ vào vùng biển Trung Hoa và
là nơi dừng chân đầu tiên khi từ Trung Quốc đến Malacca, Vịnh Thái Lan hay gần
hơn là tới vùng hạ lưu châu thổ sông Mê Kông mà 7 thế kỷ đầu công nguyên thuộc
vương quốc Phù Nam. Có thể thấy hầu hết các tuyến đường biển đến Trung Hoa hay
từ Trung Hoa đi qua Ấn Độ đều rẽ qua các cảng biển Champa. Từ một đầu mối giao
thông quan trọng, bờ biển Champa đã sớm trở thành một đầu mối giao thương, nơi
trao đổi sản vật và sản phẩm với những thuyền bạn bè qua lại. Champa hùng mạnh
nhất vào khoàng năm 800 đến năm 1000. Trong khoảng thời điểm đó, Người Chăm rất
nổi tiếng trong việc buôn bán các loại gia vị và tơ lụa với các nước như Trung
Quốc, Nusantara ( Indonesia, Malaysia, brunei…ngày nay) và nước Abbasiah ở
Baghdad (Bát Đa- xứ 1001 đêm). Vào khoảng năm 800, người Chăm được biết đến với
tài đi biển rất gỏi và những thương nhân tài ba. Theo ông Tan Sri Prof.
Emeritus Dr. Ismail Hussein, chủ tịch hội nhà văn Malaysia gọi tắt là (GAPENA)
có nói. Vùng biển mà ngày nay được gọi là Biển Nam Trung Quốc thật sự trước kia
được gọi là Biển Champa, nó từng là một vùng thương mại và vận chuyển quan trọng
của người Chăm. Sự hùng cường về thương mại và vận chuyển của đế chế Champa
nhanh chóng được nổi tiếng và rất nhiều người biết đến không chỉ ở Nusantara mà
là toàn thể thế giới lúc bấy giờ, dẫn đến vùng biển này được gọi với tên Biển
Champa.
Người Champa
“có cái nhìn về biển đúng đắn, biết tham dự và dấn thân tích cực vào luồng
thương mại quốc tế “, tận dụng những lợi thế đó để phát triển vương quốc của
mình thành một cường quốc trong khu vực. Hoạt động thương mại biển đã góp phần
quan trọng vào quá trình tồn tại và phát triển của vương quốc Champa trong
khoảng thời gian từ cuối thế kỷ X đến thế kỷ XV. Quan hệ thương mại của vương
quốc Champa từ nửa cuối thế kỉ X đến thế kỉ XV. Trong suốt quá trình phát triển
của mình, vương triều Vijaya đã dày công xây dựng các mối quan hệ với các quốc
gia vùng hải đảo. Vương quốc Champa ngày càng dự nhập mạnh mẽ vào sự phát triển
chung của lịch sử khu vực. Những mối quan hệ được dày công xây dựng, một mặt
nhằm củng cố vị thế của Champa đối với lịch sử khu vực, mặt khác tạo ra những
tiền đề thuận lợi để Champa mở rộng thương mại và dự nhập ngày càng mạnh mẽ hơn
vào nền hải thương khu vực, nhằm bù lấp cho những thiếu hụt của nền kinh tế
trong nước. Các vua Champa rất có ý thức trong việc buôn bán với người nước
ngoài, tạo điều kiện lợi dụng và trọng dụng họ. Sau khi Quảng Đông bị phá hủy
(758), việc làm ăn với thương nhân người Hoa gặp khó khăn. Trên thực tế, từ 877
đến 951, Champa không có quan hệ bang giao gì với Trung Quốc vì sự hỗn loạn
cuối thời Đường. Trong thời gian đó, họ kịp thời mở của làm ăn với thương nhân
Hồi giáo Arập đang ngang dọc khắp thế giới Đông-Tây. Khi Quảng Đông được mở cửa
lại dưới triều Hậu Chu (951-959) và sau đó là triều Tống (960 –1279), vua Đồng
Đường liền xúc tiến lại mối quan hệ giữa hai nước thông qua những nhà buôn Hồi
giáo ở Panduranga. Người Hồi giáo là những người quản lý của khu buôn bán ở
Panduranga. Những thương nhân Hồi giáo này đã có những liên hệ mật thiết với
Vương triều Champa, được tiếp xúc thường xuyên với vua Chăm và được vua Chăm
trọng dụng. Những bằng chứng mà P.Y.Manguin (1979) đã đưa ra cho thấy, trong
những người thuộc đoàn sứ giả Champa sang Trung Quốc vào năm 951 và những năm
sau đó, có người mang tên bắt đầu bằng chữ Pu hay Bu biến âm từ chữ Arập Abu.
Năm 958, người đại diện chính thức của vua Champa là người Hồi giáo có tên là
Abu Hasan (P’s Ho San ). Ông đã thay mặt vua Champa là Indra varman III
(917-960) tặng hoàng đế Trung Hoa nước hoa hồng, cây đèn “ngọn lửa Hy Lạp “ và
những viên đá quý. Năm 961, Abu Hasan trở lại Trung Hoa mang theo thư của vị
vua mới là Java Indravarman I, kèm theo những tặng phẩm được liệt kê ra như gỗ
trầm, ngà voi, vải lụa... và đặc biệt có 20 hũ Arập. Tất cả những tặng phẩm
trên có những thứ là của Champa, nhưng nhiều tặng phẩm như “nước hoa hồng“,
”đèn Hy Lạp “ là hàng của Arập thì chắc chắn là sản phẩm thương mại được các
thương nhân Hồi giáo Arập đem đến trao đổi ở các cảng Champa. Đó đều là những
sản phẩm thương mại có được từ các thương cảng của Champa .Về những mặt hàng
buôn bán xuất khẩu của Champa trong thời kỳ này, chúng ta có thể tham khảo các
loại hàng hóa đã được trao đổi và mua bán tại cảng -thị Hội An và các cảng–thị
khác ở miền Trung như Thanh Hà (Thừa Thiên- Huế ), Nước Mặn, Thị Nại (Bình Định
)... trong các thế kỷ XVII-XVIII, vì sự phồn vinh của các cảng–thị này đương
thời có thể được xem như sự tái sinh của các cảng - thị Champa vào những thế kỷ
trước đó. Về các loại sản vật ở miền Trung Việt Nam vào thế kỷ XVI có thể tham
khảo trong Ô Châu Cận Lục : “... ngà voi, sừng tê, trầm hương, bạch ngọc hương,
tô nhủ hương, biện hương, thổ cẩm trắng, thổ cẩm xanh, da trâu, nhựa thông,
sừng trâu, da hươu, nhung nai, da hươu cái, lông đuôi chim công. Lông đuôi chim
trĩ, hồ tiêu, mật ong, sáp vàng, dây mây ...” .Những loại sản vật này, mà phần
lớn đều là lâm sản nên có thể được xem là những đặc sản của Champa vào những
thế kỷ trước đó, được thu nhập bởi cư dân miền ngược rồi đem trao đổi với cư
dân miền xuôi. Điều đó cho thấy mối liên hệ khá chặt chẽ giữa các vương triều
Champa với các tộc người miền núi mà sợi dây liên kết có lẽ là những dòng sông
chảy từ thượng nguồn ra biển rất phổ biến ở miền Trung Việt Nam. Việc giữ mối
liên hệ bền chặt và lâu dài giữa các vương triều Champa với các tộc người miền
núi đảm bảo cho vương quốc Champa có thể duy trì được một sự cân bằng tương đối
trong việc phát triển kinh tế, giữa kinh tế biển, kinh tế nông nghiệp và kinh
tế lâm nghiệp. Điều này còn có ý nghĩa hơn nữa khi chúng có thể đảm bảo những
sản phẩm thương mại cho vương quốc Champa, để Champa có thể duy trì những mối
quan hệ thương mại, buôn bán với các quốc gia trong khu vực. Các nhà nghiên cứu
đã giải thích hệ thống chính trị - kinh tế của vương quốc Champa theo một mô
hình được gọi “hệ thống trao đổi ven sông“. Theo mô hình này, ”hệ thống trao
đổi ven sông“, có một vùng duyên hải để làm cơ sở cho một trung tâm thương mại,
thường tọa lạc ở một cửa sông. Đây cũng là trung tâm giao dịch hải thương quốc
tế và là điểm kết nối giữa các của sông khác của các vùng lân cận. Cũng có
những trung tâm thượng nguồn, đó là những điểm tập trung ban đầu của các nguồn
hàng có nguồn gốc từ những nơi ở xa sông nước. Những nguồn hàng này được sản
xuất ở các vùng mà các dân cư sống trong các bản làng ở miền thượng du hoặc
thượng nguồn không họp chợ. Sau đó nguồn hàng này được tập kết về các trung tâm
ở ven biển. Mỗi Mandala có riêng một hệ thống trao đổi ven sông như vậy. Biên
niên sử Trung Quốc từ thời kỳ Bắc Tống (960-1127) đã chỉ ra rằng vào cuối thế
kỷ X đã hình thành những tuyến đường biển nối liền những địa điểm cư trú vùng
biển ở quần đảo Philippin, bờ biển Bắc của Đảo Borneo và Champa. Tống sử cho
biết rằng vào năm 977, nhà cầm quyền Brunei đã gửi quà biếu đến đế chế Trung
Hoa và sứ giả của phái đoàn thông báo với triều đình của đế chế rằng May-i (đảo
Midoro) cách Borneo một khoảng 30 ngày đi thuyền. Năm 1003, phái đoàn được ghi
lại sớm nhất mang quà biếu của Philippin đi đến Trung Quốc từ Butuan. Tống sử mô
tả chính thể này ở đông bắc Mindanao như là “một đất nước nhỏ trong biển ở phía
Đông của Champa, xa hơn May-i, có quan hệ thường xuyên với Champa nhưng rất
hiếm khi với Trung Quốc. Nhiều thế kỷ sau, hàng hóa thương mại được chuyên chở
từ miền Trung Việt Nam dọc theo tuyến phía Bắc của Borneo, như được chứng minh
bởi lô hàng trên con tàu Pandanan, ở phía Tây Nam Philippin. Chúng ta không tìm
ra được những bằng chứng về mối quan hệ trực tiếp giữa Philippin và Trung Quốc,
ít ra cho đến đầu nhà Minh. Nhưng với Champa thì thường xuyên và khá độc đáo.
Dường như Champa đã đóng vai trò độc quyền trong quan hệ với Philippin một thời
gian dài (từ trước thế kỷ X đến XIII ). Do đó, thương mại và cống nạp của
Philippin đến được Trung Quốc là thông qua Champa. ”Con đường của đồ gốm thương
mại Quảng Đông có lẽ từ Trung Quốc tới Champa và rồi tới Butuan”. Champa đóng
vai trò trung gian là trạm trung chuyển đồ gốm giữa Trung Quốc với những miền
định cư ở rìa phía Đông của biển Nam Trung Quốc như Ma-i, đảo Borneo và BuTuan.
William Scott cũng đã đưa ra những cứ liệu lịch sử để minh chứng cho nhận xét
của Peter Burns và Roxanna Brown, trên cơ sở những ghi chép của Tống Sử: “Đoàn
triều cống đầu tiên đến Trung Quốc dường như đi từ Buutan ngày 17-3-1001”. Năm
1007, Butuan thỉnh cầu với Hoàng đế Trung Hoa để được nhận một vị trí tương tự
như Champa, nhưng lời thỉnh cầu bị từ chối với lý do là Butuan ở dưới trướng
Champa. Chỉ vào khoảng thế kỷ XIII thì con đường liên hệ trực tiếp LuZon và
Fujian mới trở nên phổ biến, trước đó tất cả các việc buôn bán với Trung Quốc
đều đi bằng con đường của Champa. Nhiều khả năng, những con thuyền chạy trên
vùng biển Butuan-Champa là thuyền của Champa, bởi trong thời kỳ này nghề đóng
thuyền và đi biển của Champa đã rất phát triển và thủy thủ Champa là những
người dày dạn kinh nghiệm. Champa đã lợi dụng vị trí trung gian của mình giữa
Philippin và Trung Hoa để xúc tiến những hoạt động thương mại. Biển Champa có
thể được xem là“sân chơi” Của các tộc người Malayo Polynésien. Dấu vết của sự
kiện này vẫn được tìm thấy ở những vùng đất đai mà ngay nay người Mã Lai vẫn
đang nấm quyền sở hữu, cụ thể là tiểu bang Kelantan của Malaysia.
Sự nổi tiếng về
thông thương qua lại giữa Champa và Malaysia lúc bấy giờ mạnh đến nổi khiến
vùng đất này (bang Kelantan) được gọi là “ nơi dừng chân của Chepa”. “ Chepa” ở
đây là Champa phát âm theo giọng địa phương của người Kelantan-Pattani. Có lẽ
chúng ta hãy nên trả lịch sử về cho lịch sử. Và những đứa con Melayo-polynesian
(cụ thể là sắc dân Chăm. Cũng như phần lớn các quốc gia Đông Nam Á khác trong
lịch sử, Champa đã chủ động dự nhập mạnh mẽ vào hệ thống thương mại khu vực để
bù lấp những thiếu hụt của nền kinh tế nước mình, biến tiềm năng kinh tế bên
ngoài thành bộ phận kinh tế quan trọng của mình. Có thể thấy rằng Champa có
những mặt hàng có giá trị, đáp ứng được nhu cầu của các thị trường Trung Quốc
và Tây Á. Champa với các thế mạnh của mình về vị trí địa lý,đội tàu thuyền hùng
hậu, cũng như những mặt hàng thương mại có giá trị, không những đã trở thành
một trạm trung chuyển hàng hóa (Entrepôt) cho các thị trường lớn trên thế giới,
mà còn là nguồn cung cấp hàng hóa quan trọng cho nền thương mại khu vực và thế
giới. Hoạt động thương mại thực sự trở thành một thế mạnh và là nền tảng cho
toàn bộ nền kinh tế Champa. Một nguồn hàng bí mật mà người Champa thu mua từ
Butuan (Philippin) suốt nhiều thế kỷ mà các thương nhân Trung Hoa không hề hay
biết. Vương quốc Champa đã có thể giấu Trung Quốc vị trí chính xác của Butuan.
Champa muốn giữ bí mật vì đây là nơi sản xuất vàng có quy mô lớn và rất quan
trọng. Những cuộc khai quật ở Butuan đưa ra được những bằng chứng về việc sản
xuất vàng trên quy mô lớn, cả vàng thường và vàng thau, đã cho phép chúng ta
thấy Champa là một nguồn vàng bí mật mà Trung Quốc không biết. Những mối liên
hệ và quan hệ thương mại giữa Champa và Butuan chắc chắn đã có trước ít nhất là
từ thế kỷ X. Với việc khai thác tối đa những nguồn lợi vốn là thế mạnh của
mình, cùng với việc dự nhập mạnh mẽ vào luồng thương mại khu vực và quốc tế,
Champa trong một thời gian dài trở thành một cường quốc thương mại trong khu
vực, đóng vai trò là một trung tâm liên vùng – trung tâm thu gom và phân phối
hàng hóa với chức năng trung chuyển giữa trung tâm liên thế giới với các vùng.
Từ đây, chúng ta thấy một phần nào câu hỏi trong lịch sử champa: vì sao champa
lại có vàng nhiều, trong khi đất nước họ không có mỏ khai thác vàng. Mật độ
phân bố và quy mô các di tích tháp champa cho biết đó là những khu vực tụ cư
đông đúc và lâu đời, một xã hội sức có nền sản xuất khá phát triển và do đó,
vào giai đoạn cuối của nền văn hóa này có thể đã hình thành một hình thái “nhà
nước sơ khai” kiểu liên minh bộ lạc. Cùng trên địa bàn mà sau này hình thành
nhà nước Lâm Ấp – vương quốc Champa, mối quan hệ giữa văn hóa Sa Huỳnh và văn
hóa Champa được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Những năm gần đây, nhiều cuộc
khai quật khảo cổ học đã được tiến hành nhằm tìm hiểu mối quan hệ này. Địa bàn
quan trọng là tỉnh Quảng Nam vì đây được xem là trung tâm của văn hóa Sa Huỳnh
và văn hóa Champa. Trong nhiều di tích các nhà khảo cổ đã tìm thấy những mảnh
gốm vừa mang đặc điểm của gốm Sa Huỳnh và cả đặc điểm gốm Champa. Đây là nguồn
tư liệu quan trọng để chứng minh con đường phát triển từ văn hóa Sa Huỳnh lên
văn hóa Champa. Bên cạnh đó các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra từ thư tịch cổ một
số “yếu tố Sa Huỳnh” trong xã hội và văn hóa Chaqmpa. Từ không gian và thời
gian, trên cơ sở những tư liệu khảo cổ học, đến nay có thể cho rằng nhà nước
Champa là sự tiếp nối văn hóa Sa Huỳnh, được hình thành trên cốt lõi văn hóa Sa
Huỳnh dưới ảnh hưởng những yếu tố văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ, Trung Đông.
Phân bố trên
dải đất miền Trung Việt Nam, nhưng trung tâm của văn hóa Sa Huỳnh là khu vực
Quảng Nam – Quảng Ngãi, còn khu vực Nam Trung Bộ, từ Phú Yên đến Bình Thuận
những di tích và di vật thời tiền – sơ sử chỉ được phát hiện và nghiên cứu từ
sau năm 1975. Cho đến nay số lượng di tích ở khu vực này không nhiều và có thể
nói, tính chất và diện mạo của “văn hóa Sa Huỳnh” ở đây có phần khác biệt so
với vùng trung tâm, kể cả giai đoạn nối tiếp từ văn hóa Sa Huỳnh sang văn hóa
Champa. Văn hóa khảo cổ ở đây có những nét độc lập nhất định so với vùng trung
tâm của văn hóa Sa Huỳnh. Ngay từ giai đoạn đồ đồng ở khu vực Khánh Hòa đã phân
lập được một văn hóa khảo cổ là “văn hóa Xóm Cồn”.
Theo công trình
Văn hóa Xóm Cồn với tiền sử và sơ sử Khánh Hòa thì văn hóa Xóm Cồn là một văn
hóa khác Sa Huỳnh và sớm hơn “Sa Huỳnh cổ điển”. Xóm Cồn là một văn hóa có niên
đại sớm nhất thuộc thời đại kim khí ở Khánh Hòa nói riêng và miền Trung Việt
Nam nói chung, mặc dù chưa xuất hiện di vật bằng kim loại nhưng dựa vào sự tiến
bộ của đồ gốm cũng như trong bối cảnh đồng đại của khu vực, văn hóa Xóm Cồn có
thể được xem là mở đầu cho thời đại kim khí khu vực miền Trung. Tại tất cả các
di tích thuộc văn hóa này hoàn toàn vắng mặt những di vật và sắc thái văn hóa
đặc trưng của Sa Huỳnh như chum, vò lớn, vũ khí công cụ bằng sắt, khuyên tai
hai đầu thú và khuyên tai ba mấu… Đến giai đoạn muộn sơ kỳ thời đại Đồ Sắt, ở
một số di tích mộ vò ở Nam Trung bộ như Hòa Diêm (Cam Ranh, Khánh Hòa), Hòn Đỏ,
Bàu Hòe (Bình Thuận) có nhiều yếu tố khác biệt mộ chum vò Sa Huỳnh điển hình và
thậm chí còn có những yếu tố gần gũi với văn hóa Đồng Nai ở miền Đông Nam bộ
như hình dáng chum, vò mai táng, hiện tượng di cốt và than tro hiện hữu trong
chum, vò táng…
Như vậy, văn
hóa Sa Huỳnh với giai đoạn đỉnh cao là “Sa Huỳnh cổ điển” vào sơ kỳ đồ sắt cần
được hiểu là kết quả hội tụ sự phát triển của từng khu vực trong các giai đoạn
thuộc thời Đồng thau trước đó (khoảng 1.500 – 500 trước công nguyên), cho đến
nay biết được là ở Quảng Nam có Bàu Trám, Quảng Ngãi có Long Thạnh, Bình Châu,
Cù lao Ré, đảo Lý Sơn, Bình Định có Bàu Đỏ, Phú Yên có Gò Ốc, Gò Bộng Dầu,
Khánh Hòa có Xóm Cồn, Bích Đầm, Hòn Tre, Ninh Thuận có Hòn Đỏ, Bình Thuận có
Bàu Hòe, đảo Phú Quý… Ngoài ra những phát hiện khảo cổ học ở Tây Nguyên gần đây
cũng góp phần chứng minh cho sự phát triển “văn hóa đa tuyến” ở khu vực miền
Trung: văn hóa Biển Hồ (Gia Lai), Lung Leng (Kon Tum), những di tích ở Đăk Lắk,
Đăk Nông… đều thể hiện những đặc trưng riêng biệt đồng thời vẫn có “yếu tố Sa
Huỳnh” trong di tích và di vật, nhất là về mộ chum, cách thức mai táng và đồ
tùy táng chôn theo. Những nhóm di tích hay văn hóa khảo cổ này có sắc thái văn
hóa rất đa dạng từ biển và hải đảo đến núi và rừng, vừa độc lập với nhau vừa có
mối giao lưu hoặc quan hệ tộc thuộc với nhau và cùng tham góp vào quá trình đưa
văn hóa Sa Huỳnh phát triển lên đỉnh cao trong thời đại sơ kỳ Đồ Sắt (khoảng
500 năm trước Công nguyên đến đầu công nguyên). Đây cũng là hiện tượng và quy
luật chung của các văn hóa thời đại kim khí như văn hóa Đông Sơn ở phía Bắc với
các tuyến phát triển ở lưu vực sông Hồng, sông Mã và sông Cả, văn hóa Đồng Nai
với các tiểu vùng phù sa cổ Đồng Nai, lưu vực Vàm Cỏ và vùng ngập mặn ven biển
Đông Nam Bộ.
Như vậy, nam và
cực nam Trung Bộ là nơi tụ hội từ biển – đảo vào, từ rừng – núi xuống của nhiều
tộc người và ngữ hệ từ sau thời kỳ đá mới. Sang sơ kỳ kim khí càng phân lập, về
cơ bản có hai hệ: Nam Đảo ở biển và ven biển và hệ Nam Á ở đồi núi và rừng. Hai
hệ này lại phân chia thành nhiều nhóm tộc người khác nhau nhưng cũng tăng cường
giao lưu giao tiếp (cả xung đột nữa) về kinh tế, văn hóa, xã hội với nhau. Phân
bố trên dải đất này văn hóa Sa Huỳnh là thành quả đóng góp của nhiều nhóm cư
dân – tộc người, trong đó mang đậm dấu ấn văn hóa biển của những người thuộc
ngữ hệ Malayo – Polynesien cư trú trên vùng đảo và quần đảo Đông Nam Á (và rộng
hơn), bên cạnh dấu ấn văn hóa của những người thuộc ngữ hệ Nam Á – Môn Khmer cư
trú trên dải Trường Sơn – Tây Nguyên. Quá trình tiếp xúc, giao lưu giữa các tộc
người đã tạo nên sắc thái đặc trưng từng vùng, từng khu vực. Từ nền văn hóa sa
huỳnh mà các nhà khỏa cổ học khai quật được, chứng minh rằng người champa là
tiền thân của người nam đảo Malayo – Polynesien. Các nhà sử học từng quan niệm
miền Trung là vùng đất giao thoa văn hóa giữa miền ngược và miền xuôi cũng như
giữa miền Bắc và miền Nam. Theo mô hình “mạng lưới giao thương miền ngược –
miền xuôi” của Bennet Bronson, hệ thống giao thương ven sông là đặc trưng tiêu
biểu của một trung tâm thương mại duyên hải, vốn thường được xây dựng tại một
cửa sông và đóng vai trò trung tâm xuất nhập khẩu hàng hóa. Ngoài ra, cũng có
những trung tâm thương mại nằm sâu trong đất liền hay ở miền ngược xa xôi, có
chức năng như những “trạm cung cấp” hoặc các điểm tập trung ban đầu đối với
nguồn hàng hóa xuất xứ từ những vùng ở xa sông nước hơn. Cư dân sống ở miền ngược
hoặc các làng bản thượng nguồn thường sản xuất và vận chuyển lâm sản đến trung
tâm thương mại ở cửa sông, nơi họ tìm thấy dân cư tập trung đông đúc hơn và qua
đó có thể tiếp xúc với một “nền kinh tế có trình độ kỹ thuật sản xuất tiên tiến
hơn”. Các học giả đã áp dụng mô hình của Bronson trong việc nghiên cứu lịch sử
các nhà nước cổ đại ở bán đảo Malaysia và Sumatra, cũng như Champa – một vương
quốc cổ chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ ở miền Trung Việt Nam. Mô hình này cũng
hoàn toàn phù hợp với các điều kiện địa lý của miền Trung, nơi vương quốc
Champa đã hiện hữu trong quá khứ. Tại khu vực này, hầu hết sông ngòi chảy từ
Tây sang Đông, và từ các dãy núi và cao nguyên đổ ra biển. Dọc theo mỗi con
sông, ở miền ngược, có nhiều làng mạc tụ cư của các dân tộc thiểu số. Nhờ những
con sông này, các dân tộc vùng cao thông thương giao lưu với các trung tâm
thương mại ven biển nằm ở cửa sông. Các hiện vật khảo cổ cho thấy sự giao
thương giữa miền ngược – miền xuôi đã diễn ra từ thời tiền sử. Những hiện vật
khảo cổ mới phát hiện (có niên đại từ thế kỉ thứ 5 TCN đến thế kỉ thứ 2) đã
giúp các nhà khảo cổ học có những khám phá mới về hệ thống giao thương miền
ngược, miền xuôi ở miền Trung từ thời tiền sử.Từ thập niên 1990, các nhà khảo
cổ học Việt Nam và quốc tế đã khai quật được nhiều những hiện vật tại các di
chỉ khảo cổ ở miền Trung, đặc biệt lưu vực sông Thu Bồn thuộc địa bàn tỉnh
Quảng Nam; cung cấp cho chúng ta những hiểu biết toàn diện hơn về quá khứ của
vùng đất này cũng như một kiến thức sâu sắc về hoạt động tương tác giữa miền
ngược và miền xuôi trong suốt thời tiền sử.
Các hiện vật
khảo cổ tìm thấy ở miền Trung cho thấy nơi này chịu ảnh hưởng của hai nền văn
hóa ngoại lai, đó là của nhà Hán Trung Quốc (206 TCN – 220) và của Ấn Độ. Những
hiện vật này chứng minh trong quá khứ đã tồn tại mối quan hệ hải thương giữa
một số cảng-thị và các tiểu quốc ở miền Trung với các cảng-thị khác ở Trung Hoa
và tiểu lục địa Ấn Độ. Miền Trung đóng vai trò quan trọng trong “Con đường Tơ
lụa trên Biển” (Maritime Silk Road) trong giai đoạn từ năm 500 TCN đến năm 300,
nhờ vào các nguồn tài nguyên rừng phong phú cũng như địa thế thuận lợi, nơi có
nhiều ví trí tiềm năng để xây dựng các trung tâm trung chuyển hàng hóa tiện
dụng.
Văn hóa Sa
Huỳnh dọc sông Thu Bồn
Các nhà khảo cổ
đã khai quật một số lượng lớn các di chỉ mộ táng của văn hóa Sa Huỳnh dọc hai
bên bờ sông Thu Bồn, cũng như dọc theo các phụ lưu của sông này đổ xuống vùng
xuôi. Năm 1985, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã khai quật bãi mộ táng thuộc văn
hóa Sa Huỳnh ở làng Tabhing nằm sâu trong nội địa thuộc địa bàn tỉnh Quảng Nam,
dọc theo một dòng sông chảy vào Bến Giằng, một vị trí giao thương quan trọng
trong khu vực. Làng Tabhing là nơi cư trú của người Katu, một dân tộc thiểu số
nói tiếng Môn-Khmer ở dãy Trường Sơn. Từ năm 1997, các nhà khảo cổ học Việt Nam
phối hợp với các nhà khảo cổ học Nhật Bản tiến hành khai quật các di chỉ Sa
Huỳnh tập trung ở khu vực miền núi sâu trong đất liền, dọc theo các vùng trung
du và thượng lưu sông Thu Bồn.
Các di chỉ khảo
cổ khai quật được ở cả đồng bằng duyên hải lẫn vùng sâu trong đất liền thuộc
lưu vực sông Thu Bồn cùng bộc lộ hai giai đoạn văn hóa: một giai đoạn đầu và
một giai đoạn sau. Các hiện vật văn hóa khảo cổ khai quật được tại các khu vực
ở thượng nguồn lẫn hạ lưu cho thấy việc giao thương đã xuất hiện từ thời đó và
phát triển liên tục từ giai đoạn đầu cho đến giai đoạn sau; chúng là những bằng
chứng hiển nhiên chứng minh sự tương tác giữa miền ngược và miền xuôi suốt thời
kỳ tiền sử.
-Văn hóa Sa
Huỳnh và Thương mại quốc tế
Thư tịch cổ của
Trung Hoa cũng cung cấp chứng cứ cho thấy miền Trung Việt Nam đã xuất khẩu các
loại gỗ thơm sang Trung Hoa. Theo những ghi chép của triều đình Trung Hoa từ
thế kỉ thứ3, như cuốn “Nam Châu dị vật chí” (Nanzhouyiwuzhi), thì trầm hương
được sản xuất tại châu Nhật Nam (nay là miền Trung Việt Nam) nơi cư dân thu
thập gỗ trầm từ rừng núi. Hầu hết các nhà khảo cổ học nghiên cứu tại miền Trung
đều đồng ý với quan điểm rằng có thể chứng minh sự tồn tại của một mối quan hệ
quốc tế giữa các nền văn hóa Sa Huỳnh, Ấn Độ và Trung Hoa, diễn ra theo các
giai đoạn sau: Giai đoạn đầu, từ thế kỉ thứ V TCN đến thế kỉ thứ II, miền Trung
(lưu vực sông Thu Bồn) là vùng đất giao thoa giữa hai dòng văn hóa, chịu ảnh
hưởng của Trung Hoa từ phương Bắc và Ấn Độ từ phương Nam. Dựa vào các loại hàng
hóa nhập khẩu, các nhà khoa học kết luận rằng trong thời kì này văn hóa Trung
Hoa từ phương Bắc có sức ảnh hưởng mạnh hơn văn hóa Ấn Độ từ phương Nam. Giai
đoạn thứ hai là khoảng thời gian tiếp theo, từ thế kỉ thứ II đến thế kỷ thứ V,
Ấn Độ và Trung Hoa có sức ảnh hưởng ngang nhau đối với miền Trung. Tuy nhiên,
ảnh hưởng của Ấn Độ đã trở nên vượt trội hơn so với Trung Hoa từ thế kỉ thứ V
trở đi. Không gian văn hóa của các di chỉ khảo cổ Sa Huỳnh ở miền Trung, từ
vùng duyên hải đến vùng núi, có sự trùng lắp chính xác với các di chỉ khảo cổ
vương quốc (các tiểu quốc) Champa hình thành trong các thế kỉ sau đó.
Thu Bồn – Con
sông dài nhất trong các sông chính ở miền Trung
Sông Thu Bồn
thuộc tỉnh Quảng Nam là con sông dài nhất trong các sông chính ở miền Trung.
Lượng mưa trung bình ở khu vực này xấp xỉ 4.000 mm/năm. Nhờ có lượng mưa dồi
dào, sông Thu Bồn có nguồn nước đầy đủ quanh năm. Đây là dòng sông chính kết
nối các vùng núi với các vùng duyên hải. Chính vì vậy con sông đóng vai trò
quan trọng trong việc trao đổi hàng hóa giữa miền ngược và miền xuôi. Từ thế kỉ
thứ V, các triều đại Champa đã tôn thờ con sông này như một dòng sông thiêng,
đặt tên là Mahanadi (Sông Mẹ Vĩ Đại) hay Nữ thần Ganga, vợ của Thần Siva. Lưu
vực sông Thu Bồn là giao điểm của tất cả các sông chính ở tỉnh Quảng Nam. Nhiều
khu chợ sầm uất dọc sông Thu Bồn là các địa điểm tập trung lâm sản trước khi
chuyển đến phố – cảng Hội An. Thượng nguồn của sông Thu Bồn là nơi giao nhau
giữa vùng núi và vùng trung du. Nơi đây có bến Hòn Kẽm – Đá Dừng ở thôn Thạch
Bích, là nơi các nhà khảo cổ phát hiện được tấm bia đá có niên đại từ thế kỉ
thứ VII. Theo chữ khắc trên bia này thì bia thuộc triều vua Prakasa dharma (thế
kỷ thứ 7): “Sri Prakasa dharma, vua Champa luôn chiến thắng, người chủ của vùng
đất này,… đã dựng bia tại đây để thờ thần Amaresa (Siva)”. Các chữ Champa khắc
trên bia là bằng chứng rõ ràng nhất cho thấy khu vực này trước đây do các vua
Champa cai trị. Thôn Thạch Bích cũng có những di chỉ khảo cổ tiền sử được khai
quật vào tháng 8.2001. Từ đây, các nhà nghiên cứu kết luận rằng “hệ thống giao
thương miền ngược – miền xuôi” đã được cư dân Champa sớm thiết lập từ thế kỉ
thứ VII, hoặc cũng có thể có trước cả thời kỳ Champa.
Các nhà khảo cổ
đã phát hiện được nhiều tác phẩm nghệ thuật của người Chàm tại các khu chợ ven
sông nổi tiếng thuộc hạ lưu sông Thu Bồn. Các tác phẩm này là bằng chứng cho
thấy tất cả các địa điểm này đều có mối liên hệ với các di tích lịch sử Champa.
Do vậy, các nhà nghiên cứu cũng giả định rằng các mô hình tương tác giữa miền
ngược và miền xuôi trong khu vực này đã được hình thành từ các thời kì xa xưa
hơn, với mục đích tập trung nguồn lâm sản để xuất khẩu, thậm chí còn trước cả
thời hoàng kim của phố-cảng Hội An trong các thế kỉ XVII và XVIII. Dần dà các
mô hình này được phát triển thành “mạng lưới thương mại mậu dịch rộng khắp và
trở thành các khu chợ trung chuyển và xuất khẩu quan trọng bậc nhất ở biển
Đông”.
‘Hệ thống giao
thương miền ngược và miền xuôi’ trong thời kỳ Champa (từ thế kỉ thứ II đến thế
kỉ thứ V)
Nền kinh tế của
vương quốc hay các tiểu quốc Champa, ngoài nền tảng ngư nghiệp và nông nghiệp,
phần lớn tập trung vào thương mại duyên hải với Ấn Độ, Trung Hoa và các vùng
quốc gia khác ở Đông Nam Á. Champa chính là nguồn cung cấp gần gũi nhất, từ
đây, Trung Hoa đã có thể nhập cảng nhiều loại xa xỉ phẩm như ngà voi, sừng tê,
quế, trầm hương và hương liệu…, đồng thời các cảng trung chuyển hàng hóa ở vùng
duyên hải cung cấp chỗ neo đậu an toàn, nước ngọt và củi gỗ cho các tàu đi dọc
bờ biển từ Nam Á lên Đông Á. Do vậy, vương quốc Champa đã cung ứng những thương
nhân trung gian quan trọng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động thương mại trong vùng
biển phía nam (còn gọi là Nam Hải).
Sự hưng thịnh
của các vương triều Champa được thể hiện qua các công trình kiến trúc tôn giáo.
Mẫu mực của các kiến trúc này có thể thấy ở sự phong phú của các đền-tháp Phật
giáo và Ấn Độ giáo xây bằng gạch tại miền Trung. Đáng chú ý nhất trong số
đền-tháp này là quần thể kiến trúc Ấn Độ giáo tại Thánh địa Mỹ Sơn gồm 68 ngôi
đền xây dựng từ cuối thế kỉ thứ IV đến thế kỉ thứ XIII. Tổ chức UNESCO đã đưa
quần thể kiến trúc này vào Danh sách Di sản Văn hóa Thế giới từ năm 1999. Ngoài
ra còn một phức hợp của Thánh địa Phật giáo Đồng Dương xây dựng năm 875, hiện
nay là một trong những công trình kiến trúc lịch sử Phật giáo quan trọng nhất ở
Đông Nam Á.
Theo đánh giá
của các nhà sử học, cư dân của vương quốc Champa (urang Campà) là những thương
nhân rất tài giỏi. Dọc theo các con sông chính trong khu vực, họ đã thiết lập
một mạng lưới kinh tế để trao đổi hàng hóa giữa miền ngược và miền xuôi. Các
thương nhân này nắm giữ việc trao đổi các nhu yếu phẩm giữa cư dân ở vùng duyên
hải và cư dân ở vùng núi.
Người Katu ở
miền ngược
Các khu vực
miền núi của tỉnh Quảng Nam là quê hương của người Katu, một dân tộc thiểu số
nói tiếng Môn-Khmer. Người Katu, hiện nay có dân số khoảng 50.000 người, đã
trân trọng và ra sức gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống của tổ tiên họ truyền
lại. Một số ít người Katu hiện đang sống tập trung ở tỉnh Sekong của CHDCND Lào
dọc theo biên giới với Việt Nam. Họ vẫn còn lưu giữ “những phong tục, truyền thống,
kiến thức và văn hóa dân gian rất phong phú về thiên văn học, y khoa và các
ngành khoa học khác
Các ngôi làng
rải rác của người Katu ở tỉnh Quảng Nam được xây dựng từ thượng nguồn cho đến
hạ lưu của các con sông chính trong khu vực. Ngày nay, người Katu sống gần đồng
bằng nhất tập trung tại thôn Phú Túc, phía Tây thành phố Đà Nẵng, cách bờ biển
khoảng 15km. Người Katu tự gọi mình là “Phương”, nghĩa là “người sống ở núi
rừng”.
Muối là mặt
hàng quan trọng nhất trong trao đổi buôn bán giữa người miền xuôi và miền
ngược. Muối được nhấn mạnh trong hầu hết các nghiên cứu về người miền ngược. Họ
thậm chí còn xây dựng một con đường mậu dịch chính gọi là “Con Đường Muối”. Vào
giữa thế kỉ XX, nhà dân tộc học người Pháp Jacques Dournes (Dam Bo) đã mô tả
sinh động “con đường lớn” này kéo dài từ miền núi đến miền biển trong những
công trình nghiên cứu của ông về các dân tộc thiểu số ở cao nguyên miền Trung.
“Con Đường Muối” kết nối miền ngược và miền xuôi cũng như mang các tộc người
lại gần với nhau, không chỉ để trao đổi nhu yếu phẩm mà còn vì văn hóa và hôn
nhân liên sắc tộc.Thậm chí ngày nay, người Kinh ở đồng bằng, người Katu sống ở
miền ngược vẫn thực hiện mua bán muối trong lưu vực sông Thu Bồn.
Việc mua bán
muối với người miền xuôi đầu thế kỉ XX cũng được nhắc đến trong các câu hát dân
gian của người Katu:
“Ngài là chủ
muối,
Chúng tôi luôn
là bạn của ngài,
Vì ngài mang
trâu cho chúng tôi có thịt ăn,
Và giúp mua bán
thuận lợi,
Nên chúng tôi uống
rượu với ngài,
Nhà “gươl” của
chúng tôi là nhà của ngài,
Vì ngài hùng
mạnh và giàu có,
Chúng tôi muốn
làm bạn với ngài”.
“Mạng lưới giao
thương miền ngược – miền xuôi” ở miền Trung Việt Nam: Mẫu hình đa sắc tộc cộng
cư trong khu vực
Nhờ có vị trí
địa lý nằm giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam, tỉnh Quảng Nam là vùng đất hội
tụ các nền văn hóa. Điều này giải thích cho việc cộng cư của các sắc tộc nói
tiếng Nam Đảo và các sắc tộc nói tiếng Nam Á (Môn-Khmer) cũng như dân tộc Kinh
hoặc người nói tiếng Việt với các cư dân bản địa trước đây của vùng đất này.
Trong suốt thời kỳ tiền Việt (nước Việt Nam hiện đại – ND), vào thế kỉ XVI, cư
dân sống ở lưu vực sông Thu Bồn vẫn dùng ngôn ngữ Champa của riêng họ và gìn
giữ các phong tục Champa cổ. Những cư dân sống ở đồng bằng này có thể đã bắt
đầu nói tiếng Việt vào một thời điểm nào đó trong thế kỉ XVII. Sự pha trộn ngôn
ngữ phản ánh rõ rệt trong ngữ âm độc đáo của người nói tiếng Việt sống ở lưu
vực sông Thu Bồn.Yếu tố văn hóa của vương quốc Champa vẫn còn tồn tại ở miền
Trung. Theo hầu hết các tường thuật của người phương Tây và người Nhật Bản đến
miền Trung hay Cochin-China (tên người phương Tây dùng để gọi Đàng Trong trước
hậu bán tk XIX – ND) trong suốt các tk XVI và XVII, thì ảnh hưởng của văn hóa
Champa vẫn còn rất mạnh, khi vùng đất này được gọi là Kẻ Chiêm hay Xứ Chiêm.
Các chứng cứ ngôn ngữ và lịch sử chỉ rõ rằng một hình mẫu của sự cộng cư từ lâu
đã là đặc trưng của mối tương tác giữa các dân tộc sinh sống ở lưu vực sông Thu
Bồn nói riêng cũng như ở miền Trung nói chung. Theo những tài liệu có dấu vết
thời gian rõ ràng từ sử liệu cổ Trung Hoa và các bia ký ghi nhận thì vương quốc
cổ Champa chính thức xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ II, tức năm 192 khi quốc
gia Lâm Ấp ra đời. Thật ra vương quốc này trước đó có rất nhiều tên: Hồ Tôn
Tinh, Tượng Lâm... Sau này được đồng hóa với các tên Lâm Ấp, Hoàn Vương Quốc,
Champa (Campapura), Phan Rang (Panduranga), cuối cùng là trấn Thuận Thành
(Pradara).Về vùng đất Tượng Lâm, các sử liệu Trung Hoa xác quyết đó là phần đất
ở vùng cực Nam quận Nhật Nam xưa kia, trực thuộc quyền quản trị hành chánh của
Giao Châu thời Bắc thuộc; ngày nay là các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định
(có tài liệu ghi đến cửa Đại Lãnh, Phú Yên). Những nhà khảo cổ phương Tây cho
rằng Tượng Lâm có thể là phần đất chạy dọc theo bờ biển, từ đèo Ngang đến đèo
Hải Vân, nằm trong lãnh thổ các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và
Thừa Thiên, gọi chung là Thanh Nghệ Tĩnh và Bình Trị Thiên. Một số học giả
người Champa xác nhận lãnh thổ Tượng Lâm bao gồm: Indrapura (Bình Trị Thiên),
Amavarati (Quảng Nam) và Vijaya ( Bình định), sau này gọi chung là Bắc Champa. Các
triều vương Champa mà người sáng lập Khu Liên lên ngôi năm 192, trị vì trong
nhiều năm, nhưng không biết mất năm nào và ai là người kế vị. Sử cổ Trung Hoa
(Lương thư) cho biết trong khoảng thập niên 220-230, con cháu Khu Liên có gởi
phái bộ đến thống đốc Quang Đông và các thái thú Giao Châu (Lã Đại và Lục Dận)
triều cống và duy trì quan hệ ngoại giao. Từ sau nửa thế kỷ thứ hai sau công
nguyên, phần lãnh thổ cực nam Giao Chỉ trở nên khó trị, dân cư bản địa liên tục
nổi lên chống lại chính sách cai trị hà khắc của chính quyền đô hộ nhà Hán.
Huyện Tượng Lâm trở thành nơi tranh chấp thường trực giữa quan quân đô hộ nhà
hán và nhân dân địa phương.
Di sản của vua Champa Poklong Muhnai
Một bộ di sản của hoàng tộc Champa gồm hơn 100 hiện vật của vua
Pôklông Mưhnai được lưu hơn 300 năm qua bởi những người phụ nữ dòng dõi
hoàng tộc tại Bình Thuận
Cách TP Phan Thiế 60 kmt, về thôn Tịnh Mỹ, xã Phan Thanh, huyện
Bắc Bình – thủ phủ xưa của vua Chămpa Pôklông Mưhnai. Hỏi thăm nhà cụ Nguyễn
Thị Thềm, từ trẻ con đến người già trong làng đều biết, mặc dù hiện cụ đã khuất
núi. Người Champa ở vùng này thường gọi cụ Thềm là “bà công chúa”.
Những công chúa cuối cùng
Theo tục lệ của người Champa theo đạo Bà la môn, người con gái út trong dòng tộc được hưởng thừa kế và chịu trách nhiệm thờ cúng tổ tiên. Do vậy, việc lưu giữ những di sản của tổ tiên để truyền cho đời sau thường do người con gái út trong gia đình đảm nhiệm. Bà Nguyễn Thị Đào, năm nay đã 68 tuổi, kể: “Mẹ tôi là con út nhưng mất sớm. Lúc đó, tôi còn quá nhỏ nên việc thừa kế bộ di sản của hoàng tộc được giao cho dì tôi là cụ Thềm”. Cụ Thềm không có gia đình nên xem bà Đào như con ruột. Năm 1995, cụ Thềm mất ở tuổi 85, trao quyền gìn giữ bộ di sản lại cho bà Đào. Con gái út của bà Đào là Lư Nguyễn Thị Phương Diễm (36 tuổi) sẽ là người tiếp theo trong hoàng tộc Chămpa ở địa phương này được thừa kế bộ di sản.
Theo tục lệ của người Champa theo đạo Bà la môn, người con gái út trong dòng tộc được hưởng thừa kế và chịu trách nhiệm thờ cúng tổ tiên. Do vậy, việc lưu giữ những di sản của tổ tiên để truyền cho đời sau thường do người con gái út trong gia đình đảm nhiệm. Bà Nguyễn Thị Đào, năm nay đã 68 tuổi, kể: “Mẹ tôi là con út nhưng mất sớm. Lúc đó, tôi còn quá nhỏ nên việc thừa kế bộ di sản của hoàng tộc được giao cho dì tôi là cụ Thềm”. Cụ Thềm không có gia đình nên xem bà Đào như con ruột. Năm 1995, cụ Thềm mất ở tuổi 85, trao quyền gìn giữ bộ di sản lại cho bà Đào. Con gái út của bà Đào là Lư Nguyễn Thị Phương Diễm (36 tuổi) sẽ là người tiếp theo trong hoàng tộc Chămpa ở địa phương này được thừa kế bộ di sản.
Bà Nguyễn Thị Đào là người đang thừa kế quyền gìn giữ bộ di sản hoàng tộc Chăm
Ông Lư Thái Thuổi (72 tuổi), chồng bà Đào, cho biết dòng hoàng
tộc của vợ ông ít con cái, đến đời ông mới đông con, nhưng con trai nhiều hơn.
Do vậy, việc ai được thừa hưởng quyền lưu giữ bộ di sản này sẽ được cả dòng tộc
họp bàn quyết định, tất nhiên vẫn theo nguyên tắc của chế độ mẫu hệ xưa nay.Chúng tôi thắc mắc vì sao là hậu duệ của hoàng tộc Chăm nhưng cụ
Thềm, bà Đào lại mang họ Nguyễn, ông Thuổi “đoán” có thể là lấy theo họ vua nhà
Nguyễn từ những năm đầu thế kỷ XIX.
Báu vật của vua và hoàng hậu
Trong số hơn 100 hiện vật mà gia đình bà Đào đang lưu giữ, giá trị nhất là bộ vương miện của vua và hoàng hậu. Vương miện của vua Pôklông Mưhnai là vương miện duy nhất còn lại của các vị vua Chăm, được làm hoàn toàn bằng vàng, có gắn đá quý, chạm trổ tinh xảo. Vương miện, bông tai, vòng xuyến của hoàng hậu cũng làm bằng vàng với những họa tiết cầu kỳ, đường nét uyển chuyển. Ngoài ra, các bộ khay khảm xà cừ, đồ đựng trầu cau cung đình, trang phục của vua, hoàng hậu, hoàng tử, công chúa, đao kiếm, phèng la trận, mũ lính… cũng được cất giữ cẩn trọng. Đây là những hiện vật thể hiện rõ nét trình độ nghệ thuật điêu khắc độc đáo của người Chăm xưa. Tất cả phản ánh đậm nét đời sống văn hóa cung đình và lễ hội.
Trong số hơn 100 hiện vật mà gia đình bà Đào đang lưu giữ, giá trị nhất là bộ vương miện của vua và hoàng hậu. Vương miện của vua Pôklông Mưhnai là vương miện duy nhất còn lại của các vị vua Chăm, được làm hoàn toàn bằng vàng, có gắn đá quý, chạm trổ tinh xảo. Vương miện, bông tai, vòng xuyến của hoàng hậu cũng làm bằng vàng với những họa tiết cầu kỳ, đường nét uyển chuyển. Ngoài ra, các bộ khay khảm xà cừ, đồ đựng trầu cau cung đình, trang phục của vua, hoàng hậu, hoàng tử, công chúa, đao kiếm, phèng la trận, mũ lính… cũng được cất giữ cẩn trọng. Đây là những hiện vật thể hiện rõ nét trình độ nghệ thuật điêu khắc độc đáo của người Chăm xưa. Tất cả phản ánh đậm nét đời sống văn hóa cung đình và lễ hội.
Vương miện của vua Pôklông Mưhnai: cao 19,5 cm, đường kính 19,5 cm, chạm trổ
nhiều hình tượng thủy quái Makara và vương miện của hoàng hậu PôBia Sơm: cao
9,5 cm, chu vi 12 cm và bông tai, vòng xuyến
Trong suốt những năm chiến tranh, bộ di sản trải qua không ít
thăng trầm. Bà Đào kể: “Thời chống Pháp, gia đình dì Thềm sợ bị mất nên giấu kỹ
trên núi cao mấy chục năm. Đến thời chống Mỹ, dì tôi có đem về nhưng vẫn phải
chôn dưới đất, sau giải phóng mới dám đào lên”.
Ông Thuổi cho biết thêm: Tụi tôi sinh sau đẻ muộn nên không biết
tường tận các thế hệ của gia đình trước đây giữ gìn bảo vật của hoàng tộc như
thế nào, chỉ nghe kể lại rằng, năm 1945, hưởng ứng “Tuần lễ vàng” do Bác Hồ
phát động, gia đình bà Thềm đã ủng hộ một bộ vương miện bằng vàng được cho là
của vua Pôklông Kul (một người bà con của vua Pôklông Mưhnai).
Theo “hồ sơ gia đình” bà Đào, mấy chục năm qua, trải qua bao dâu
bể của thế cuộc, bộ di sản của hoàng tộc chưa bị mất hay thất lạc bất kỳ một
món nào. Thậm chí, thời bao cấp, dẫu kinh tế gia đình có lúc rất khó khăn,
nhưng chưa bao giờ, chưa bất kỳ ai trong dòng tộc nghĩ đến việc mang bảo vật đi
bán.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét